Phạm Thùy Dung
Sân bay lúc nửa đêm
Đến Ấn Độ lúc nửa đêm. Sương trắng xóa, có mùi hăng hăng, không phải là thứ sương mong mỏng, nhẹ nhàng như những miếng kem bông xốp bình yên tôi vẫn thấy ở Việt Nam. Hơi lạnh quấn lấy hai chân, len vào từng tế bào, luồn vào từng chân tóc. Dưới cánh máy bay, Ấn Độ bỗng trở nên quá xa lạ. Một tiếng đồng hồ đợi chờ người đón trong cảm giác hoang mang. Cảm giác ấy vẫn chưa kết thúc cả khi chúng tôi đã ngồi trên chiếc taxi của người đàn ông có đôi mắt sắc lẻm. Cuối cùng thì Sara Hotel cũng hiện ra với màu vàng ấm áp của những cặp đèn mờ. Toàn đàn ông. Họ nói nhanh, cười tươi, xách đồ thoăn thoắt… Hai chị em tôi tắm xong, nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Khu chúng tôi ở là Green Park – một con phố yên tĩnh có những hàng cây cao nhọn hoắt. Cùng dãy với Sara Hotel có vài khách sạn nhỏ, một ngân hàng và một bệnh viện. Hai chị em tôi bắt đầu ngày mới bằng một cuốc đi bộ ra ô chợ nhỏ gần khách sạn. Gọi là chợ cũng hơi xa xỉ, vì rất ít hàng hóa. Có đôi ba chiếc xe chở rau củ quả, vài hàng bánh rán, một cửa hàng ảnh như ở một huyện nào đó của Việt Nam. Đàn ông đi chợ và sinh hoạt trên đường phố nhiều gấp mấy lần đàn bà. Họ làm bánh, bán rau, gò lưng đạp xe trên đường. Khăn len, mũ len hoặc mũ chóp giữ cho họ ấm giữa những cơn gió lạnh bập bùng. Áo quần lẫn lộn màu vàng-nâu, ám nhiều bụi đất. Nhiều nhóm người thong thả, tụm năm tụm ba đứng trước các cửa hàng trò chuyện. Một góc của Green Park có cả tiếng những chú quạ kêu quang quác trên vòm cây và dây điện. Mấy chú chó béo nằm cuộn tròn trước những cửa hàng. Mèo to nhảy lật phật quanh một chiếc cổng cũ. Màu đen của con phố. Gạch đá nhộn nhào. Tuk tuk (phương tiện chở khách phổ biến ở Ấn Độ) vàng-xanh ngã giá xôn xao giữa Green Park nghèo nàn.
35 rubi cho 5 quả dưa chuột và một cái bắp cải nhỏ xíu. Xách chút củ quả xanh về khách sạn, chúng tôi lao lên giường cùng máy tính và sách vở. Gọi là cầm nắm một chút cho ra không khí học hành, chứ thực ra bộ phim ướt át trên Star Movie đã khiến mắt tôi bất động. Vừa xem vừa ăn một quả dưa chuột giòn tan, tôi cảm nhận nó như một nàng Ấn Độ chắc nịch đầy sức sống. Những mảnh thơm ngon, ngọt mát tan trong tâm trí. Bỗng muốn nghe một đoạn nhạc nào đó trước khi ngủ thật say. Tự bao giờ, tôi đã thấy mình mạnh mẽ hơn, có lẽ vì đã ăn được món cary đầy cá tính.
Tôi vẫn chưa có cơ hội được thấy một New Delhi hoành tráng. Những cú lướt mắt thoáng qua từng dãy phố sắc màu với sale off đến 60% cũng chẳng tạo được ấn tượng gì về sự giàu sang. Cứu vãn sự tuyệt vọng của tôi bắt đầu là đôi mắt và nụ cười của một cô gái xinh đẹp ngồi trong tuk tuk. Mặt trời bừng lên ở đó, một mặt trời đẹp đẽ được người đàn ông bình dị kéo nhẹ nhàng đi. Buổi chiều ấm áp đã trôi qua, bên kia đường, một gáo nước lạnh dội xuống chiếc quần đùi màu đất của người đàn ông cao gầy. Vì cửa sổ xe không thể kín khít, nên tay tôi cũng lành lạnh theo những giọt nước vô tư…
Sara Hotel
Tự dưng rất nhớ chỗ ngồi lặng lẽ trong một quán nhỏ ở Hà Nội. Có những buổi chiều tôi đã ngồi một mình để viết bâng quơ, hoặc chỉ để ngắm nắng đang rơi trên mái tường cũ kỹ. Còn lúc này, chỉ có thể là 204 Sara Hotel với tiếng lao xao phát ra từ màn hình phẳng đang bật Star World sôi động… Đối với chúng tôi, đương nhiên phòng ngủ và phòng ăn của Sara Hotel là hai căn phòng quen thuộc nhất. Phòng ngủ nhỏ. Phòng ăn cũng nhỏ. Tấm cửa gỗ nâu chắc nịch, đèn vàng và những cốc nước trong. Sàn nhà đi chân không. Chiếc bàn đá là nơi hai chị em hôm nào cũng ngồi ăn mì tôm sau buổi đi học về. Ấm nước một ngày nấu hai chục lần. Và điều hòa chỉ dùng để bật thông gió. Phòng tắm cũng là điểm nhấn ấn tượng. Một chiếc gương có viền sáng chạm những ô tối như viên thuốc hình con nhộng. Chiếc vòi hoa sen rọi thẳng từ trần nhà xuống như đèn trùm được chị Hằng ví như chiếc bình tưới rau nhà bác ở quê, khi nước nóng phun xuống, người mình thành cây hoa hân hoan đón nước.
Bữa tối là lúc tôi có thể đẩy cửa bước vào gặp chàng trai phục vụ vui tính. Chàng luôn đeo carvat sành điệu thắt ngoài áo sơ mi trắng bọc trong áo rét màu tối giản dị. Chàng có đôi mắt hiền, cái miệng hóm hỉnh, dáng người mảnh như những thân cây hình chóp mọc dải đầy trong phố phường New Delhi. Chàng sẵn sàng mang nước, bánh, kem cho chúng tôi bất cứ lúc nào và luôn chăm chú theo dõi những biểu lộ của chúng tôi khi thưởng thức các món mà đồng đội chàng xào nấu phía trong. Giọng chàng tựa tiếng đập cánh thảnh thơi của những chú chim bay liệng đầy trời. Chàng dẫn chúng tôi xem căn bếp hàng ngày vẫn nấu những món ăn lạ, phân tích cho tôi nghe về những gia giảm dành cho món ăn để trong những ngăn gỗ nhỏ. Mùi quế đặc trưng, lá rau khô, ớt và nhiều thứ khác. Tôi đã hứa khi rời Ấn Độ, sẽ để lại cho chàng lọ nước mắm Việt Nam. Chàng rất vui vì điều đó. Chàng mới 26.
Trường học Aptech
Chúng tôi sấp ngửa dậy sớm và lên tầng thượng uống sữa, ăn một vài thức ăn xa lạ, rồi chạy một mạch xuống đợi chiếc xe cà tàng ranh mãnh đến đón đi. Xe đưa chúng tôi đến Aptech là chiếc xe đầy hơi nằng nặng của loại dầu gì đó. Tôi và chị Hằng cùng hai cô bạn nước ngoài chèn vào nhau lắc lư qua những ổ gà trên đường. Những vòng cua lụa là lao qua bao gốc cây. Chàng lái xe trẻ tuổi thể hiện trình độ hạng siêu của mình bằng cách nói chuyện điện thoại suốt đường đi. Đường tắc quá!
Khu chúng tôi học không có gì đặc biệt. Giờ này ở Việt Nam, tôi vẫn còn đang chìm trong cơn ngủ trưa hoặc lang thang cà phê. Bụng thì réo gào nhưng tôi vẫn đủ sức vượt qua màn chào hỏi hàng ngàn năm vẫn diễn ra tại các lớp học buổi đầu gặp gỡ. Cô giáo có đôi mắt thật to tròn sậm màu cà phê. Cô nói thứ tiếng Anh – Ấn khá dễ nghe dù trình độ tiếng Anh của chúng tôi có hạn. Những học viên đến từ nhiều nước với những gương mặt và sắc thái biểu cảm phong phú. Bốn màu da đủ cả. Ngôn ngữ đông tây nam bắc không thiếu miền nào. Một sự hội tụ văn hóa quy mô nhỏ đã diễn ra tại lớp học Aptech này, cho chúng tôi những trải nghiệm lần đầu đầy háo hức. Chúng tôi đã trở thành “rich girls” (chữ chị Hằng dùng) trong tích tắc khi hai chàng Hanit Vairagi và Kartik Dabral xin chữ ký với giá 2.500 rubi (học bổng). Nhờ sự liên hệ mật thiết giữa cơ quan chúng tôi với ĐSQ Ấn Độ mà bao lứa cán bộ đã được sang đất Ấn, tự mình trải qua những cảm giác lần đầu ở nước ngoài.
Tan học, cả bọn ra sân và đứng đợi xe đón về khách sạn trong khói thuốc loang trắng xóa trước mặt của cô bạn Chile. Có hai chú bò thong thả dạo bước bên ngôi đền cổ lỗ chỗ những mảng vữa rụng rời. Những chú muỗi bay như tàu lượn trên không trung. Chiều qua như thế bằng lời gọi hớt hải của chàng lái xe. Chàng cúi rạp người qua tường rào hét gọi mấy đứa chúng tôi đang mải mê cười toe toét dưới nắng chiều. Xe đi qua một con đường vòng xoáy ốc khiến tôi nhớ đến chiếc bếp điện thời cổ lai hy ở nhà bà ngoại với những vòng lò xo đỏ rực. Đã bắt đầu thấy trên đường những xe hoa quả trở đầy nho đen…
Gặp đồng hương, “hàng xóm” và ăn tết Việt
Có mưa trong ngày hôm nay. Mọi người nói thật may, vì Ấn Độ ít mưa lắm. Mưa táp cả vào mặt người đàn ông vừa chở chúng tôi vừa liên tiếp ăn những hạt đậu được lấy ra từ chiếc túi da đính kèm xe tuk tuk. Đôi bàn tay đen và móng tay cáu bẩn. Nhưng tôi cũng chả thấy bẩn nữa, vì chúng tôi đang bị lạc đường. Một người đàn ông Ấn đi cùng vợ đã giúp chúng tôi tìm được đường đến Savar Priya Vihar bằng một cuộc điện thoại và sự kiên nhẫn. Đó là một đôi vợ chồng “nhà giàu”, tôi đoán được qua cách ăn mặc và phong thái giao tiếp. Họ lịch sự và thân thiện ngoài sức tưởng tượng của tôi. Nhờ sự thân thiện đó, chúng tôi nhanh chóng đến khu của những biệt thự trắng sạch sẽ bình yên. Cô chú Tuấn – Thủy ở Đại sứ quán cùng các con của mình đón chúng tôi bằng nụ cười hồn hậu, hỏi han chuyện trò rồi đưa hai chị em tôi đi nạp tiền điện thoại. Tôi bắt đầu quen với đồng rubi và không còn cảm giác sợ hãi của “sân bay lúc nửa đêm”. Gặp người Việt Nam ở nơi xa lạ, lòng ấm như bếp lửa.
400 rubi đã giúp sim điện thoại yên ổn trong túi. Hai chúng tôi đi về và ngồi bật liên tiếp những kênh tivi địa phương của Ấn trong lúc chờ ăn tối. Hai người đàn ông trên sân thượng vẫn xoắn xuýt với lửa cùng những chiếc nồi. Biết thế là vì chúng tôi đã mon men vào phòng ăn lúc chưa có món nào được dọn ra, và tôi đã nhìn trộm họ qua cửa kính nhà bếp. May sao chúng tôi có thể ăn được những món mà hai người đàn ông hào hứng giới thiệu. Hơi cay. Nhưng vẫn ổn. Vừa ăn vừa căng tai ra nghe mọi người nói và đáp trả hay hỏi họ những câu vừa tầm mình. Món hoa quả cắt vụn giúp hơi cay bay đi bớt. Và nó đã bay hoàn toàn sau cuộc trò chuyện của hai chị em với một cô gái Ethiopia, một anh chàng Malaysia và người đàn ông tóc xoăn Colombia. Trước khi chia tay để choàng chăn ấm, cô bạn da đen còn đề nghị thăm phòng tôi một lát. Đôi mắt sáng nổi bật trên làn da thăm thẳm. Cặp mông cong quay vút đi để lại tiếng “Good night” ngọt ngào.
Sau hai tuần dài ăn đồ Ấn không có rau xanh nấu như kiểu nhà mình, chúng tôi thấy quá xót ruột. May sao chủ nhật, Thavy và My rủ qua nhà bạn họ ăn cơm nấu theo kiểu Lào. Chủ nhà đón chúng tôi chính là Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Lào tại Ấn. Ông có dáng người mảnh dẻ, miệng cười rất hiền và rất thích âm nhạc. Tuyệt hơn là ông nói được tiếng Việt vì đã có 8 năm học tập ở Việt Nam. Không gian tràn ngập những bài hát Việt Nam. Có lẽ chủ nhà muốn chúng tôi vui và chứng tỏ cho chúng tôi thấy họ yêu Việt Nam như thế nào. Chúng tôi theo ông và con trai ông ra khu chợ cách đó chừng 3 km mua đồ ăn. Chợ nho nhỏ, nhưng có hai cửa hàng thịt bò rất ấn tượng, bán cả chục con to kềnh càng một lúc.
Chúng tôi đến Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ ăn tết sớm. Đi cùng 6 người Việt có thêm 2 bạn Lào và 3 bạn Campuchia. Trong không khí nhộn nhịp cười nói của không gian Việt, MC hỏi: Các bạn ngửi thấy mùi gì vào lúc này? Người thì bảo tôi ngửi thấy mùi mùa xuân, người nói tôi ngửi thấy mùi xa quê, người lại cho là mình đang ngửi thấy mùi ấm áp. Chỉ có em bé hồn nhiên là biết tả thực: Cháu ngửi thấy mùi thức ăn ạ! Còn tôi tự đặt câu hỏi rồi tự trả lời: Mùi quê hương ở đâu? Trong nỗi nhớ!
50 rubi cho 5 người, chúng tôi đã được tuk tuk khó nhọc ném lại trước cổng Dilli Haat. Thêm 15 rubi cho một vé vào cửa, mảnh sân đầy khoảng trống đã hiện ra. Trời sang chiều, trắng đục như những trang giấy trong cuốn sổ mà anh chàng đeo kính người Ấn tí nữa sẽ nài nỉ tôi mua. Dilli Haat không đông như tôi tưởng, hoặc cũng có thể tùy ngày. Sau khi ném 195 rubi qua cửa sổ để đổi lấy mấy thứ đồ ăn không nuốt nổi, chúng tôi đã sẵn sàng mở ví chi tiêu. Khăn, áo với những đường thêu cầu kỳ tỉ mẩn. Thảm, chăn với những hoa văn sặc sỡ nồng nhiệt. Giày, dép với những mũi giầy hếch lên như chú hề mũi đỏ đang tung hứng cầu bay… Trên đầu, đèn lồng đung đưa. Dưới chân, tranh vẽ bằng tay lan tràn mời gọi. Những chú chó chạy loăng quăng trong sân, hứng chí lại nằm lăn quay ra chờ đón khách. Những đôi mắt cuộn theo chân du khách, như cố níu lại thật lâu, với niềm hy vọng nhỏ nhoi ngời lên trong lời mời. Tôi mua được hai bánh xà phòng hương Neem (cây thường xuân nổi tiếng của Ấn Độ), mùi thanh nhã. Cuối chiều, tôi lại cùng mọi người chui vào tuk tuk, ngồi trên lòng Ieva ấm áp. Nhìn vào khuôn gương trước mặt, chốc chốc lại thấy đôi mắt người lái xe. Trong sâu thẳm đôi mắt ấy như có cả cánh rừng kim tước xạc xào.
India gate, Parliamen House và Cambodian Temple
India Gate chan hòa trong nắng sớm. Nếu được hát thật to lên, tôi sẽ hát một bài hành khúc. Bởi chúng tôi đã được xem một đội quân duyệt binh với bộ quân phục thật ấn tượng. Tôi chụp ảnh chung với một cậu bé dễ thương có làn da mềm và đôi mắt trong trẻo đi chơi cuối tuần cùng bố mẹ. Cậu khác hẳn với cậu bé đang lủi thủi phía sau kia cũng muốn tôi chụp cho một kiểu ảnh. Một đôi mắt khôn lanh bởi trải đời quá sớm. Quần áo đen đúa, miệng cười méo xệch. Cậu chắp tay kiểu Ấn cho tôi chớp vội kiểu ảnh có đôi môi đậm ánh chiều tà chưa kịp hé làm duyên. Xem ảnh, có vẻ hài lòng, cậu bắt tay tôi. Đôi bàn tay trẻ thơ rin rít bụi đất và mồ hôi, lạnh ngắt.
Rashtrapati Bhavan và Parliamen House trời rất trong, đường sạch bong. Những bông hoa đủ sắc mầu rực rỡ 8 cánh nở bung ra cho nắng rót mật. Hoa như những bông thược dược nở vào dịp tết ở Việt Nam. Chúng tôi vừa đi vừa chạy, cậu bạn gần tôi bỗng hét to “I want to fly” khiến cho vài chú chim đậu gần đó giật mình, cánh tung chấp chới. Chúng tôi lại di chuyển sang địa điểm mới. Cambodian Temple nho nhỏ thanh bình mặc dù bên ngoài cánh cổng là những đám bụi khổng lồ nhuộm bạc trắng lá cây. Chúng tôi uống Cocacola, ăn bánh ngọt và loanh quanh ngoài bãi cỏ. Sau đó vào trong đền nhìn các bạn Campuchia thắp hương. Đoạn đường về có vẻ nhanh hơn. Lúc này tôi nhớ Sara Hotel vô cùng, chính xác là nhớ chiếc giường êm ái.
Đền Laxmi Naryan, Bangla Sahib và Jhandewala Deviji
Việc đi chân trần vào tiết trời buốt giá thật khó khăn, nhất là trên nền đá lạnh ngắt. Chúng tôi đi chân trần lội qua dòng nước chảy chậm rãi trước cổng đền Laxmi Naryan. Những dòng người vẫn tiếp tục đổ vào nơi đây. Họ lội qua dòng nước, cúi người vốc một vốc cho lên miệng uống và rửa mặt. Có lẽ dòng nước này sẽ mang lại may mắn cho họ. Dòng nước hòa quyện biết bao mảnh bụi của hàng ngàn hàng vạn đôi chân, bao nhiêu màu da, bao nhiêu ý nghĩ. Sự hòa trộn đó đã chứng minh cho sự gắn kết, cùng chung ý nguyện về một thế giới tốt đẹp và bình yên. Chúng tôi đi thành một hàng và lắng nghe người hướng dẫn kể về sự tích cũng như lễ nghi khi vào đền. Phía trên là những dải kim tuyến lấp lánh trắng đỏ lung linh. Dưới chân thảm trải bao la sạch sẽ. Những người đàn ông và đàn bà ngồi trong im lặng. Nhiều người cầm trong tay quyển kinh đọc lẩm nhẩm, mắt mơ màng. Chúng tôi rời ngôi đền bằng một miếng chè trộn mỡ ngọt lịm được hứng từ tay hai người đàn ông da rất nâu.
Chúng tôi tiếp tục đi đến địa điểm tuyệt vời tiếp theo: Bangla Sahib. Một khung cảnh mênh mông trải ra trước mắt. Màu đỏ trầm nền nã trộn cùng tông vàng thanh tao khiến cho các tòa tháp nổi bật trên nền trời lơ đãng những gợn mây. Từng đàn chim thi nhau bay đến đậu đen kít trên những chóp nhọn ấy. Lạc đà quỳ, hổ phục, sư tử đứng, rắn vươn mình, vịt thảnh thơi… là những con vật được tạc bằng đá, khiến khung cảnh trở nên sống động. Một bức mành được kết bằng hoa vàng theo gió đung đưa…
Chợ INA, chợ hầm Pakila và đền Jhandewala
Nếu so sánh chợ Đồng Xuân với INA Market thì chợ nhà mình hoành tráng hơn, mặc dù INA là chợ thực phẩm nổi tiếng ở Ấn Độ. Càng vào sâu phía trong, đường đi càng nhớp nháp. Những người đàn ông vẫn tiếp tục gánh vác trách nhiệm bán hàng, mặc cho các quý bà dạo quanh ngắm nghía. Chúng tôi gọi món Hongkong Chicken ngay mặt trước của chợ.
Thả hình tròn màu xanh giá 10 rubi vào hộp cửa, chúng tôi ngồi yên vị trên những chiếc ghế sáng bóng của tàu điện ngầm. Giá rẻ. Chất lượng tốt. Tốc độ cao… Metro đúng là lựa chọn số một để đến chợ hầm Pakila. Chợ nằm dưới lòng một thảm cỏ xanh, phía trên, những bầy chim đang tìm đôi ba vụn bánh mì còn sót lại của khách thập phương ngồi nghỉ chân trước và sau khi vào chợ. Chợ toàn đàn ông, những mái tóc ngắn chải keo bóng mượt gọi chúng tôi rối rít trước cửa hàng của họ. Cũng ngả giá trên trời, cũng giá mua dưới đất. Cũng hàng tàu không khác chợ Ngã Tư Sở. Sau khi mua một số thứ, chúng tôi rẽ vào nhà hàng Cusine King đỏ rực, gọi Tomato – Cheese Pizza và Veg. Rice hết 287 rubi. Bữa trưa là động lực cho cả nhóm tiếp tục đi thăm Jhandewala Deviji Temple.
Khác hẳn với những ngôi đền chúng tôi đã từng đến. Jhandewala nằm giữa một mớ ngổn ngang dây điện, dây cáp. Ngôi đền trắng toát càng tăng thêm độ lạnh giá khi tôi đi chân trần vào trong. Hương dừa già quyện cùng mùi nến thơm thoang thoảng. Nơi này những người chưa có gia đình thường đến để cầu hạnh phúc, tình yêu. Những đôi cưới nhau rồi cũng đến để cầu yên ấm, cầu con cái. Tôi nghĩ đây chính là ngôi đến tác hợp duyên số cho biết bao người. Bởi thế mà chúng tôi đã được chụp ảnh chung cùng một đôi cô dâu chú rể. Boeun được tặng một vòng hoa và một tấm khăn may mắn. Cậu tặng tôi vòng hoa bằng cách ném nó từ tay mình lọt hẳn vào đầu tôi. Những bông cúc vàng khi chuyển sang tôi giờ đây là màu của tình bạn, không phải biểu tượng của tình yêu mà người gác đền trao cho cậu đã thì thầm cầu chúc. Tôi ngủ gục trong tuk tuk đường xa. Sea Boeun chịu lạnh ngồi ngoài chắn gió. Bốn chúng tôi đã để tuk tuk lao quá về South Extension Part I, gần tới lớp. Tôi sực tỉnh khi Boeun hốt hoảng hô scouter quay ngược trở lại. Về đến Sara đã là chiều tối. Phía hoàng hôn chỉ còn một đốm lửa mờ.
Safdarjung’s Tomb và Qutub Minar
Sudesh dẫn chúng tôi đi trong cơn sương sớm còn chưa kịp tan. Safdarjung’s Tomb như một bài thơ thì thầm lặng lẽ. Tôi đã bắt đầu quen với màu đỏ, màu nâu – màu thời gian của những đền đài Ấn. Những vỉa gạch nép sát vào nhau tạo nên một vẻ đẹp của sự đoàn kết cộng đồng. Tôi ngước nhìn lên một cành cây khô, có cái gì cứ lay động lay động. Tựa như một quả bóng bị xì hơi đang bay trên trời bỗng vương vào cành nhọn mắc míu. Nhìn thật kỹ, thì ra là một chú quạ non. Có lẽ chú vẫn còn đang trong cơn mê ngủ, cánh lười bay. Những bầu tháp tròn trịa như những đôi mắt đẹp của người phụ nữ Ấn, như dáng người mặn mà của các bà các cô tôi vẫn thấy trên đường phố New Delhi. Dặng dừa cao vút vươn lên cùng đỉnh tháp. Chúng tôi cảm giác mình chính là những hạt đường khuấy ngọt cả không gian. Và tiếng cười thì leng keng va vào nhau như từng viên đá trắng…
“Bởi anh dắt em vào ngôi đền cổ/ Nên chén ngọc giờ chìm xuống đáy sông sâu…”. Bỗng muốn đọc to câu thơ của Thu Bồn khi bước chân vào Qutub Minar trong bình minh rực rỡ. Những bức tường đá cũ đã lên nước thời gian hiện ra trước mắt. Ngọn tháp cao vời vợi với kiến trúc siêu đẳng đang ngóng lũ chim vần vũ trên cao. Tôi nghe được tiếng gió gọi từ những rặng cây rất gần. Người quét tháp vẫn cần mẫn với công việc của mình. Sự rộn ràng của chúng tôi không làm anh ta nao núng một đường quét nào. Ấn Độ đã mở ra trước mắt chúng tôi cả thế giới của đền đài và thiên nhiên xanh ngắt. Quên cả bụi đường, những cái chìa tay xin tiền đầy bi thương. Quên cả những cuốc xây dựng dang dở còn nằm bên ngoài kia, chúng tôi đưa mình lạc vào thế giới của cổ tích. Bên loài hoa mọc lúp xúp không có tên trong trí nhớ, những chiếc cột kiểu cách đứng kiêu hãnh qua bao mùa nắng mưa. Nhẹ nhàng, tôi ngồi xuống một chiếc bệ đá có hàng ngàn thân người đã từng ngồi ngơi nghỉ, để cảm nhận những phút giây thư giãn thực sự.
Con đường dài như giấc mơ tôi có trên chuyến xe đi cùng các học viên Aptech. Thời gian bỗng trở nên nhanh lạ thường, đó là khi chúng tôi bước vào Trip 2, bắt đầu với Agra. Hai bên đường, bụi bay đầy trong gió. Ấn Độ quãng đó xơ xác và nghèo nàn. Nhiều đoạn thật giống với con đường quanh khúc ruột miền Trung Việt Nam. Tour chỉ thực sự là tour khi xe dừng lại ở Agra Fort. Những bầy khỉ quấn quýt bên nhau hoặc phân chia nhau ra mỗi con ngồi gác một góc pháo đài nhìn ngắm du khách với con mắt láo liên nhí nhố. Thiên nhiên, con người, vạn vật hòa thuận, quyện chặt nhau.
Mộ Mahatma Gandi nằm trong một khu mênh mông hoa cỏ. Nắng chiều xiên xuống nhè nhẹ thanh bình. Raj Ghat đơn giản vô cùng. Một ngôi mộ lát đá bằng phẳng, xếp lên đó những bông cúc vạn thọ vàng trắng tươi tắn. Gió se se thổi bên những chiếc ghế đặt trên khu tường thành cao. Đứng từ trên nhìn xuống khuôn viên có đặt ngôi mộ, một cảm giác yên ả ngập tràn… Khác với Lăng Bác của chúng ta, nơi này nếu muốn vào thăm mộ phải gửi giầy mất 5 rubi.
Tajmahal – “giọt lệ lăn trên gò má người thiếu nữ” đã ở gần bên. Gió chiều thổi lạnh từng sợi tóc. Xếp hàng dài vô tận để vào thăm hầm mộ tối tăm. Chợt giật mình, ngày hôm nay bao người nối nhau vào chiêm ngưỡng nó, chính là đang giáp mặt với một công trình chất đầy xương máu của bao người trong quá khứ. Dưới kia, dòng nước xôn xao níu kéo mặt trời trong ngần, đỏ ối, khổng lồ…
Lodhi garden và ngày chia tay
Chiều ngập nắng. Tôi cùng Ibrahim thong dong đi dạo bên những lối cỏ ngoằn nghèo, trêu lũ ngỗng, chọc lũ chim, ngắm hoa và giơ tay “bắt” gió. Lodhi garden đẹp như trong giấc mơ. Sự bình yên này nghìn năm sau cũng không thể tìm thấy lại được nữa… Còn giờ đây, chúng tôi đang ngồi trên taxi ra sân bay, trở về VN trong một tâm trạng lẫn lộn: lưu luyến New Delhi nhưng lại mong máy bay sớm hạ cánh xuống sân bay Nội Bài. Đến lúc yên vị trên máy bay của hãng hàng không Thái, đầu tôi vẫn bập bùng mấy câu thơ vừa kịp phác thảo: “Dưới chân đồi mờ sương/ Tiếng vẫy tay thanh bình của lũ chim đậu trên ngọn tháp/ Hơi nắng tan trong thành phố/ Xập xòe tán lá, sà mình xuống thảm cỏ mùa xuân/ Những chồi non mây mẩy, êm ái gọi bàn chân/ Bức tranh cuộc sống, không gợn ưu phiền/ Tôi tự cho bút mình, phết lên toàn màu trong trẻo”.