Phong tục cưới hỏi độc đáo của người Si La

Hẳn nhiều người còn thấy lạ lẫm khi nghe nhắc đến dân tộc Si La bởi đây là dân tộc rất ít người trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Người Si La sinh sống chủ yếu ở miền núi Tây Bắc, tập trung đông nhất tại tỉnh Lai Châu (bản Seo Hai, Sì Thâu Chải của huyện Mường Tè) và tỉnh Điện Biên (bản Nậm Sin của huyện Mường Nhé). Hiện nơi đây vẫn còn duy trì nhiều phong tục tập quán cổ truyền, trong đó lễ cưới hỏi được xem là nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Si La.

Mùa cưới của người Si La thường được tổ chức vào cuối năm âm lịch, khi mùa vụ đã kết thúc, người dân thảnh thơi để lo những chuyện trọng đại như cưới hỏi và trang hoàng nhà cửa chuẩn bị đón năm mới. Theo phong tục của người Si La, khi con trai và con gái đến tuổi dậy thì (14 – 15 tuổi), người lớn bắt đầu lo chuyện dựng vợ gả chồng cho con em mình.

Bà con Si La rất tín nhiệm ông mối, họ tin đây chính là khởi nguồn cho mọi sự được thuận lợi, giúp hai nhà trai gái thấu hiểu nhau và giúp cô dâu chú rể có thể chung sống hòa thuận trọn đời. Ông mối có vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các quyết định về ngày giờ, thủ tục cưới hỏi và lễ vật xin dâu cũng như lễ cúng đón dâu. Ông sẽ chọn giờ lành tháng tốt thay mặt nhà trai đến nhà gái thưa chuyện, đại diện nhà trai tiếp nhận các yêu cầu lễ vật, đồng thời đưa ra định hướng để hai bên đi đến thống nhất về thủ tục, lịch trình cưới hỏi. Lễ vật cầu hôn thường phải đầy đủ gà, rượu, nước, gạo nếp, trứng gà, cân tiểu li, vòng cổ và 5 đồng bạc. Nhà trai rất chú trọng phần lễ bởi điều này thể hiện sự sung túc cũng như lòng thành của họ đối với nhà gái.

Lễ cưới người Si La diễn ra trong hai ngày. Ngày thứ nhất, vào giờ đẹp như đã định, chị gái hoặc em gái của chú rể sẽ đến nhà gái ngỏ lời hỏi cưới. Tới ngày hôm sau, ông mối sẽ dẫn nhà trai sang nhà gái làm thủ tục chính thức xin dâu. Sau khi được bố mẹ đẻ lưu luyến trao của hồi môn, cô dâu sẽ theo anh trai hoặc ông cậu của mình ra cửa theo đoàn rước dâu về trong tâm thế bịn rịn.

Tới nhà trai, đoàn đón dâu chưa được vào nhà ngay mà phải dừng ngoài cửa để thực hiện các nghi lễ cần thiết. Mẹ chú rể sẽ mang vòng cổ, vòng tay và bộ váy áo mới ra cho cô dâu thay. Bà sẽ cùng những chị em trong gia đình nhà trai giúp cô dâu đeo vòng tay, vòng cổ, vấn tóc thật chỉn chu và che chắn kín đáo để cô dâu thay quần áo mới ngay ngoài cửa nhà. Cô dâu mới e ấp giữa bốn bên là họ hàng nhà chồng và nức lòng hạnh phúc khi từ đây đã được vấn khăn theo lối của một phụ nữ có chồng.

Trang phục cưới của phụ nữ Si La được chăm chút tỉ mỉ với những đường thêu tinh tế và tươi tắn nhấn nhá ở cổ, đường chéo ngực, ống tay và đai thắt eo. Màu váy cơ bản thường là màu tối để các đường thêu khéo léo có màu sắc sặc sỡ sẽ nổi bật trên nền tối đó. Đặc biệt vòng cổ và khăn đội đầu được trang trí rất điệu đà với sắc màu lấp lánh như ánh nắng trải vàng trên những đỉnh sườn non. Phải nói thêm, phong tục Si La quy định, các cô gái khi chưa lấy chồng thì sẽ đội đầu bằng chiếc khăn trắng, còn sau khi lấy chồng thì đội khăn màu đen để người ta còn phân biệt được.

Tiếp đến, chú rể và mẹ chú rể sẽ tiến hành lễ cúng gồm một con gà nướng, một quả trứng luộc, xôi, thìa và bát nước lã để báo cáo tổ tiên nhà có con dâu mới. Cô dâu chú rể sẽ cùng nhau ăn xôi và trứng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người trước khi bước vào nhà chú rể. Tục ăn xôi trứng thể hiện mong muốn vợ chồng chung thủy và sớm sinh con cháu đề huề cho dòng tộc. Sau các thủ tục trên, cô dâu chính thức bước vào nhà để nhận danh phận mới là con dâu trong gia đình. Lúc này niềm vui mới bung nở khi những lời chúc tụng, ca hát, nhảy múa đậm bản sắc Si La cùng hòa nhịp tới thâu đêm suốt sáng.

Điều lạ là, đêm đầu tiên về nhà chồng, cô dâu phải cùng chú rể nằm nhón nhén ở gian nhà phía trái chứ chưa được phép vào trong buồng ngủ của họ. Về thủ tục lại mặt, người Si La cũng thực hiện các bước tương tự như người Kinh. Trong lễ lại mặt, ông mối sẽ được nhận lời cảm ơn của hai bên gia đình, nhà trai và nhà gái cũng được dịp gặp gỡ chia sẻ mối quan tâm chung dành cho đôi vợ chồng mới cưới.

Với người Si La, lễ cưới lúc này không chỉ là niềm vui của một gia đình mà còn là cơ hội để bà con dân làng tăng thêm sự thương yêu, gắn kết. Theo ngày tháng, lẩn khuẩn trong những vùng rừng núi hoang sơ, lễ cưới của người dân tộc Si La cứ diễn ra hồn nhiên như thế, là nghi thức giúp duy trì nòi giống của một dân tộc tuy ít người nhưng không ít ngày vui.

https://heritagevietnamairlines.com/phong-tuc-cuoi-hoi-doc-dao-cua-nguoi-si-la/

Published in: on 09/10/2019 at 10:33 Sáng  Gửi bình luận  

Đại ngàn khoáng đạt

Ngày chưa biết Buôn Đôn, tôi từng nghe đôi ba người than vãn: “Buôn Đôn chả có gì đâu, đi loanh quanh chỉ thấy mỗi núi rừng sông suối” hoặc “Giờ Buôn Đôn đô thị hóa mất rồi, không còn người dân tộc mấy đâu”. Nhưng với riêng tôi, chuyến dừng chân tại Buôn Đôn lại là dấu ấn đáng nhớ nhất trong chuỗi hành trình khám phá vùng đất đỏ Bazan đại ngàn khoáng đạt.

Với những ai thích đi theo lộ trình với sự hướng dẫn của hướng dẫn viên du lịch thì có thể tìm đến những địa điểm nổi bật của Buôn Đôn như Khu du lịch quần thể cầu treo, Khu du lịch sinh thái Bản Đôn – Ánh Dương, Vườn Quốc gia Yok Đôn, Thác Bảy nhánh – Thanh Hà hay Trang trại du lịch Vườn Troh Bư để được thăm quan tổng thể. Còn với tôi, tôi thích tự mình khám phá vẻ hoang dã nguyên sơ và yên bình của Buôn Đôn theo góc nhìn riêng, bởi theo tôi bạn sẽ không thể yêu Buôn Đôn nếu chỉ sử dụng các dịch vụ bán vé khô khan và đi theo lộ trình đơn điệu của một khách du lịch ngắm cảnh quan qua quýt. Vẻ đẹp Buôn Đôn sẽ chỉ hiển hiện khi bạn bước chậm lại, thả lỏng tâm trí, ngắm nhìn và lắng nghe để cảm nhận thật sâu vẻ đẹp thiên nhiên và bản sắc văn hóa Tây Nguyên lẩn khuất trong từng sinh hoạt đời thường dung dị.

Tháng 11, trời miền Trung Tây Nguyên lãng đãng dìu dịu một cảm giác thơ thới, rất phù hợp để vào rừng. Mùa này mưa đã ngớt, nắng không quá gắt, bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi thăm Buôn Đôn trong cả một ngày dài mà không mỏi mệt. Hãy bắt đầu chuyến đi lý thú bằng việc khám phá vườn quốc gia Yok Đôn với cảnh quan đa dạng và phong phú. Buôn Đôn và Ea Súp của tỉnh Đắk Lắk (cùng với Cư Jút của tỉnh Đắk Nông) là ba huyện được hưởng trọn không gian của khu rừng đặc dụng mang tên “rừng khộp”. Rừng khộp là loại rừng thưa cây, rụng lá vào mùa khô, có cấu trúc tán đơn giản, chủ yếu chứa các loại cây thuộc họ Dầu. Bạn có thể thảnh thơi đi bộ, đạp xe trong rừng sâu dưới bóng những tán lá mát rợp. Bạn có thể chinh phục đỉnh Yok Đôn nếu hứng thú leo núi hoặc thử làm kiểm lâm để thực tế công việc gác rừng nhiều thú vị. Người yêu vẻ đẹp tự nhiên sẽ thích thú khi được khám phá nơi này trong khi người ưa vẻ nhân tạo sẽ ít nhiều thất vọng bởi Buôn Đôn còn đơn sơ quá. Với tôi, đơn sơ là một vẻ đẹp, hoang dã là một giá trị. Sau lớp mưa phùn sáng sớm, nắng bắt đầu hé, sưởi nhẹ cho những loài hoa dại vô tư khoe sắc. Mùa khô, mùa lá rụng, vườn quốc gia Yok Đôn như được nhuộm muôn ngàn sắc đỏ vàng nên thơ. Ai bảo Tây Nguyên không có mùa thu?

Nhắc đến Buôn Đôn thì không thể không nhắc tới dòng Sêrêpôk. Sông Sêrêpôk là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Tại Đắk Lắk, sông có đoạn mang tên là Đăk Krông và chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp của tỉnh này. Sông Sêrêpôk là linh hồn và biểu tượng của vẻ đẹp Buôn Đôn, là con sông duy nhất của Việt Nam có dòng chảy ngược về phía Tây. Sông Sêrêpôk là nơi hội tụ của nhiều nhánh sông suối nhỏ, chất chứa bao tinh hoa và câu chuyện đời người. Lưu lượng dòng chảy lớn không chỉ tạo ra các giá trị về thủy điện mà còn khiến hệ sinh thái nơi đây trở nên đa dạng, phong phú… Dòng Sêrêpôk đẹp bởi có nhiều ghềnh thác như thác Đray Sáp, Trinh Nữ, Đray H’linh, Đray Nu, Gia Long và Bảy Nhánh. Thác Bảy Nhánh được nhiều người tìm đến bởi sự đặc biệt khi dòng chảy về qua đây gặp ghềnh đá lớn thì chia làm ra 7 nhánh nhỏ chảy qua các tảng đá. Ai đó theo thuyền độc mộc xuôi dòng Sêrêpôk sẽ khám phá ra ốc đảo Ea Nô và lắng nghe câu chuyện tình của chàng trai M’Nông cùng nữ tù trưởng Ê Đê. Trên chặng hành trình của sông Sêrêpôk, du khách hãy thử cảm giác rung rinh, chơi với trên cầu treo bắc qua sông hay tới hồ Lăk,Thác Phật, suối Đắk Lau, Đắk Te, Đăk Ken để thư giãn, câu cá và bơi lội.

Huyện Buôn Đôn có sự sinh sống của đồng bào các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, M’Nông … tạo nên một quần thể văn hóa đặc sắc, đa dạng. Người ưa khám phá bản địa sẽ chọn cách cùng ăn, cùng ở với bà con để cảm nhận chân thực phong tục tập quán đồng bào. Đi lững thững trên triền đất rộng, bạn sẽ được ngắm hoa cà phê nở trắng hay bị hút theo những dáng thổ cẩm đang gùi măng thấp thoáng rẻo cao. Bước vào những ngôi nhà sàn, nhà dài Ê Đê có tuổi đời trăm năm, bạn sẽ được sống trong không gian đồng bào với những nếp văn hóa khác biệt với lối sống của người Kinh. Những ngôi nhà nằm bình yên, luôn rộng mở đón bạn vào và hình ảnh quen thuộc là bên bậc cửa, một cô gái đang thêu thùa đan lát hay một cụ già ngồi tựa cửa thảnh thơi sẽ cười rổn rảng khi gặp người quen và cười rất hiền khi gặp người lạ. Khi đã kiếm được cho mình một nơi để ở giữa lòng dân bản, bạn sẽ được hòa nhập vào đời sống một cách thực sự như được thưởng thức rượu cần nồng đượm; say sưa trong vũ điệu cồng chiêng với điệu dân ca Eacray, Gứt và chìm đắm trong tiếng kể Khan (sử thi) của già làng tóc bạc. Bạn sẽ được tham gia các trò chơi cà kheo, bịt mắt đập niêu đất, lăng mình trên xích đu hay bập bênh bằng gỗ để nghe tiếng cười trong vắt của mình dội lại từ rừng xa. Bạn cũng sẽ muốn mang về chút lưu niệm như thuốc và rượu Amakong hay những miếng thổ cẩm rực rỡ… Và hẳn sẽ nhớ rất lâu ẩm thực núi rừng bởi cơm lam dẻo nướng trong ống nứa, thịt heo giòn sật, thịt nai bùi thơm, nhộng sâu muồng, gà nướng Bản Đôn, măng khô đượm nắng, lẩu rau rừng thanh mát nấu cùng thịt và tôm khô, những miếng cá ngọt vị sông SêrêPốk…

Rời Buôn Đôn, vùng đất đỏ Bazan huyền thoại với vị thiên nhiên đượm mùi nắng gió đại ngàn, người biết thưởng thức vẻ đẹp hoang dã thực sự của Tây Nguyên chắc chắn sẽ muốn quay trở lại, không chỉ một lần.

https://heritagevietnamairlines.com/noi-dai-ngan-khoang-dat/

Published in: on 09/10/2019 at 10:09 Sáng  Gửi bình luận