Hôm nay được chị Mỹ gửi lại cho bài viết này, thấy có chút bâng khuâng. Bài mình viết từ 2008, tính đến giờ là đã 17 năm rồi. Nhớ những ngày trẻ rong ruổi viết bài khắp nơi. Trong đó mảng trường học cũng viết rất nhiều. Không nhớ cụ thể có bao nhiêu ngôi trường mình đã ghé đến.
Cá mòi là một trong những loại cá yêu thích của nhà tôi. Sáng chủ nhật, khi ánh nắng xiên qua ô cửa bếp, là lúc tôi đang kho cá mòi.
Cá mòi có tên tên tiếng Anh là Sardine, thuộc họ cá trích, là loại cá biển thơm ngon và giàu giá trị dinh dưỡng. Cá màu trắng bạc, mình dẹt, vảy mềm nhỏ, thịt ngọt, xương nhiều nhưng mềm, có vị ngọt tự nhiên nên được nhiều người ưa thích. Cá có kích thước chừng 10 – 20 cm tùy loài. Đầu cá hình tam giác, miệng nhỏ và hơi thuôn. Mắt to, thân dài, hơi dẹt và thu hẹp ở phần đuôi. Có một vây lưng, một vây bụng và hai vây mang, phủ lớp vảy bạc sáng, lưng màu xanh xám. Ở Việt Nam, sông Hồng và sông Luộc là khu vực cá mòi quy tụ thành những đàn lớn. Cá mòi ngon nhất là cá mòi ở sông Hồng, càng bắt được những con cá mòi ngược dòng sông vào sâu trong đất liền thì càng ngon, càng ngọt.
Cá mòi có một bản năng rất đặc biệt khi được sinh ra ở sông nhưng lại bơi ra biển để sống. Hàng năm vào độ cuối tháng 2, đầu tháng 3 âm lịch, mùa sinh sản của chúng, những chú cá lại vượt dòng nước chảy và về nơi mình sinh ra để đẻ trứng. Khi đàn cá mòi bơi ngược từ hạ lưu sông Hồng về vùng Hưng Yên, Hà Nội… là lúc làng chài ven sông Hồng rộn ràng thả lưới đánh bắt. Vì vậy mà người dân truyền tai nhau câu chuyện về sự tích cá mòi. Họ kể rằng, cá mòi là do chim ngói hóa thành khi mỗi năm hết vụ lúa thu, chim ngói bay ra biển, hóa thân thành cá mòi. Mùa xuân, cá bơi ngược về sông, đến đầu nguồn lại hóa thân thành chim ngói. Sự tích này giúp người dân nhớ về tập quán di cư của hai loài cá mòi và chim ngói. Trứng cá mòi nở ra ở vùng nước ngọt, khi trứng nở, cá con lớn lên theo hành trình từ sông trôi ra biển. Trong những ngày tháng giêng nắng ấm, lượng cá đánh bắt nhiều, nếu không ăn hay bán hết thì người đánh cá sẽ phơi khô cá hoặc muối chua để bán.
Cá mòi chứa nhiều dưỡng chất quan trọng, trong đó có: Omega-3, giúp thúc đẩy sức khỏe tim mạch, giảm nguy cơ tắc nghẽn mạch máu và hạ huyết áp, giảm thiểu các bệnh về tim. Vitamin D, vitamin B, vitamin A,… hỗ trợ cơ thể hấp thu canxi hiệu quả, tốt cho xương; giúp cải thiện chức năng tim mạch, thúc đẩy cơ thể chuyển hóa hiệu quả năng lượng từ thực phẩm và tốt cho mắt. Cá mòi cũng chứa nhiều canxi, photpho giúp tăng cường sức khỏe và độ dẻo dai cho xương khớp. Loài cá này cũng chứa các khoáng chất như sắt, niacin, kali, magie, kẽm và photpho,… giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì chức năng cơ bản của cơ thể, bao gồm cả sức khỏe xương và hệ thần kinh. Cá mòi trông nhỏ bé thế thôi nhưng lại là nguồn cung cấp protein dồi dào, giúp tăng cường sức mạnh cho xương và cơ bắp, đồng thời tham gia vào quá trình hỗ trợ sự vận chuyển và chuyển hóa các chất dinh dưỡng khác trong cơ thể. (*)
Cá mòi thường được kho tiêu, sốt cà chua, làm chả băm, nấu canh chua, rán giòn chấm mắm ớt, nướng than hoa chấm muối tiêu chanh, nấu cháo, trộn salad, trộn gỏi. Và người ta còn làm cả mỳ Ý cá mòi khá ngon nữa. Có giai đoạn tôi mê cá mòi kho nồi đất rục xương cùng chuối xanh và tương người ta bán ở siêu thị. Vị của chúng ngon mê tơi khi xương cá ăn được và bùi hết biết. Còn tự nấu thì tôi hay kho tiêu. Hôm nào may mắn gặp buổi chợ có cá mòi tươi là tôi đều rinh chúng về. Vị cá tanh dễ chịu, quện giữa mùi nước mắm, hành khô, kẹo đắng tự chưng, nước và chút dầu ăn nữa, mùi vị trở nên hoàn hảo. Cứ thế đun xình xịch trên bếp với chế độ liu riu lửa. Lúc cá đủ chín sẽ săn lại, khi ăn sẽ rất chắc thịt mà xương lại mềm. Tôi thường thêm tiêu chín ngào đường Phú Quốc vào nồi khi còn khoảng 10 phút nữa là tắt bếp. Vị tiêu bay ra đầy không gian, thơm nức mũi.
Hạnh phúc mỗi ngày với tôi chỉ là những điều dung dị, đơn giản như thế! Và gian bếp của tôi càng thêm ấm áp, bình yên khi có thêm vị thân thuộc của cá mòi.
(*) Một số nội dung về tập tính và thành phần dinh dưỡng của cá mòi được tham khảo và trích dẫn từ Internet.
Lễ hội cổ truyền Hà Nội là một trong rất nhiều loại hình, thành tố tạo nên nền văn hoá dân gian Thăng Long – Hà Nội. Đó là sự tổng hoà nhiều nhu cầu tín ngưỡng của người dân với ước vọng cầu mùa, cầu phồn thực, cầu buôn bán phát triển thịnh vượng; biểu đạt sự ngưỡng vọng, mong mỏi và lòng thành kính của nhân dân. Các lễ hội ở vùng văn hoá Thăng Long – Hà Nội bao giờ cũng mang dấu ấn của đời sống thanh bình, thanh tao, lối sống lạc quan, nền nã, sang trọng, có tính thẩm mỹ thể hiện rõ trong cách bài trí, tổ chức cũng như cách tham dự lễ hội. Đặc biệt vào mùa xuân, khi những mầm non tách mình lách ra đón gió nhẹ và mưa rây, không gian rộn lên những xôn xao của một năm mới nhiều hứa hẹn, thì cũng là lúc những lễ hội Hà Nội cuốn con người vào những ngày vui tưởng như không dứt.
Lễ hội Phù Đổng
Rời thành phố để sang các địa phương thuộc Hà Nội xem những lễ hội suy tôn Thánh Gióng, mới thấy hình tượng này trong dân gian có ý nghĩa quan trọng biết nhường nào. Lễ hội Phù Đổng, Chi Nam (Gia Lâm), Xuân Đỉnh (Từ Liêm), đền Sóc (Sóc Sơn) đều có những đặc trưng riêng của mình. Trong số bốn hội trên thì hội Gióng ở Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội) nổi tiếng nhất, thực sự có tổ chức quy củ, nghiêm túc và công phu nhất. Đến đây du khách sẽ được hoà mình vào những màn múa hát thờ thần của phường Ái Lao trong lễ tế. Xem tường tận diễn trận tái hiện sự tích Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân. Chính hội diễn ra vào ngày 9/4 âm lịch, còn trước đó – ngày 6/4 là lễ rước nước từ giếng trước đền thờ Mẫu. Trong các ngày hội sau đó, những trò chơi như lễ cắm cờ, mừng chiến thắng, cáo trời đất, đua tài… diễn ra sôi nổi và đem lại cho người tham dự nhiều hào hứng và lưu luyến khi rời hội.
Hội gò Đống Đa
Hội gò Đống Đa diễn ra hàng năm vào ngày mùng 5 tết Nguyên Đán tại gò Đống Đa, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là lễ hội chiến thắng, được tổ chức để tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung – người anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc và là một trong những lễ hội diễn ra sớm nhất ở Hà Nội sau Tết Nguyên Đán. Vào buổi sáng ngày hội, các vị chức sắc và bô lão trong làng đã tề tựu đông đủ chuẩn bị cho cuộc đại lễ. Đến gần 12 giờ trưa, từ đình làng Khương Thượng đến gò Đống Đa, người ta tiến hành đám rước thần mừng chiến thắng. Sau cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang và đám rước “rồng lửa Thăng Long” là lễ dâng hương, lễ đọc văn với không khí trang trọng. Thanh niên hai làng Đồng Quang và Khương Thượng đua nhau bện rơm thành hình những con rồng lớn và trang trí bằng mo cau và giấy bồi. Một tốp thanh niên mặc những bộ trang phục giống nhau đi quanh đám rước Rồng lửa và biểu diễn côn quyền nhằm tái hiện lại hình cảnh của chiến trận năm xưa, biểu dương khí thế của nghĩa quân Tây Sơn. Sau những nghi thức trang trọng, các trò chơi và biểu diễn nghệ thuật dân gian như múa lân, múa rồng, đấu vật, chọi gà, cờ người, côn quyền, đánh trống… thu hút nhiều người tham gia và cổ vũ.
Lễ hội đền Chúa
Lễ hội đền Chúa diễn ra vào sáng ngày mùng 1/8 âm lịch tại Thôn Viên, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Chùa Anh Linh và đền Chúa là hai di tích kiến trúc văn hóa nghệ thuật gắn liền với sự kiện lịch sử đời Trần chống giặc Nguyên Mông, đồng thời gắn với quá trình chiêu dân, lập ấp thành làng Việt Cổ ở xã Cổ Nhuế với công lao sự nghiệp của Công chúa Túc Trinh (con gái Vua Trần Nhân Tông). Ngày giỗ Chúa có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Sau lễ cúng thực gồm cơm tẻ nấu bằng gạo lật, trám đen muối, muối vừng, giá luộc, canh đậu xanh, tương… người dân lại dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc lên ban thờ. Mọi người còn đem những gì của nhà trồng được, làm ra đến dâng lễ tại đền. Người dân còn thắp hương ngoài rìa đường để cầu xin Chúa ban phúc. Đêm hôm đó tại đền có tổ chức múa lân, múa rồng, hát chèo, diễn tuồng, đọc và bình thơ rất hay, thu hút người đến tham dự đông vui và đầm ấm.
Lễ hội đền Bà Tấm
Đền Bà Tấm thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1939. Trước đây người ta náo nức chuẩn bị cho hội từ ngày 16, đến chính hội là ngày 19 và kéo dài đến tận ngày 25 tháng 2 âm lịch với phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi. Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu… Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Chính quyền địa phương và nhân dân ngày càng tổ chức tốt hơn nên hội thực sự là nơi mọi người mong đến để tham dự, nhất là khi những trò vui dân gian được khôi phục lại ngày càng nhiều.
Lễ hội đền Trèm
Đền Trèm là nơi thờ Lý Ông Trọng nằm ở vị trí bên tả ngạn sông Hồng, ngay trên con đê thuộc xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mở đầu là lễ rước nước được lấy ở giữa dòng sông để phục vụ cho lễ tắm tượng. Sau đó là lễ rước văn, cuối cùng là lễ tụng kinh cầu siêu do thầy chùa phụ trách tiến hành trong đêm Rằm. Khi các nghi lễ tiến hành xong thì mọi người cùng nhau chơi những trò vui quen thuộc: thả chim bồ câu, chèo thuyền, đánh cờ, đấu vật… Những thú chơi tao nhã đó đã phần nào tái hiện lại một hình thức lễ nghi nông nghiệp xưa. Vì thế hội đền Trèm được nhiều người biết đến và rất hứng thú về dự để được hoà mình vào đất và nước của một làng quê nông nghiệp ven đô quanh năm vang tiếng nói cười trong lao động và trong những trò chơi dân gian còn được lưu giữ.
Hội đền Cổ Loa (Hội đền An Dương Vương)
Hội đền Cổ Loa cử hành hằng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng và kéo dài trong khoảng 10 ngày. Trong ngày lễ hội có sự tham dự của dân 12 xóm trong vùng Cổ Loa. Lễ hội mở đầu bằng đám rước Văn Chỉ và kiệu Thành hoàng các xóm sáng mồng 6 tháng Giêng sang đền thờ Vua chủ. Đền Thượng sẽ là nơi cử hành tế lễ, sân đền có cắm cờ ngũ sắc và bày các khí tự: đôi ngựa hồng, ngựa bạch hai bên tả hữu, chính giữa là hương án có bày đồ lễ, hộp kính đựng hia vàng và các đồ ngũ sự cùng với các khí giới của nhà vua. Tuy nhiên tượng nhà vua và chiếc mũ bình thiên vẫn để trong gian thờ. Khi đám rước tới, các tiên chỉ sẽ sắp xếp theo chánh hội tế và cử hành nghi thức tế cổ truyền. Lễ tế thường kéo dài từ lúc quá Ngọ sang Mùi mới xong. Sau khi đội tế của làng Cổ Loa tế xong lần lượt sẽ đến các đội tế khác. Cuối cùng dân làng và du khách vào lễ cầu nguyện nhà vua phù hộ cho thịnh vượng bình yên. Sau buổi tế, dân làng tổ chức rước kiệu thần của 12 xóm và kiệu long đình của nhà vua cùng cung tên, kiếm nỏ, phường bát âm, cờ quạt đi một vòng quanh giếng Trọng Thuỷ về đình Ngự Triều. Đám rước xong cũng là lúc dân làng tham dự hội với những trò vui cổ truyền: đánh đu, đáo, đĩa, các cụ thì chơi tổ tôm, cờ bỏi… Hội cứ thế kéo dài cho tới 16 tháng Giêng mới làm lễ tạ trời đất và đóng đám. Hội đền An Dương Vương còn có một lễ rước rất đặc sắc là lễ rước vua giả làng Nhội làm phong phú thêm cho hội đền An Dương Vương, góp phần thu hút đông đảo người dân Hà Thành và người dân các vùng lân cận đến tham dự. Vì vậy mới có câu: “Chết thì bỏ con bỏ cháu/Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng”.
Hội chùa Vua
Hội chùa Vua ở làng Thịnh Yên (Phố Huế, Hai Bà Trưng) mở từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 9 tháng Giêng. Sau cuộc tế lễ là tới hội cờ: cờ tướng, cờ người, chọi gà, múa sư tử cùng các trò chơi khác. Trong hội thi cờ, cờ người là đặc sắc hơn. Ngoài ý nghĩa trí tuệ mà các kỳ thủ phải vận dụng, nó còn mang ý nghĩa nghệ thuật cao qua trang phục của quân cờ do người đóng. Một bàn cờ kẻ bằng vạch vôi trên sân chùa, ba mươi hai quân cờ được kẻ vẽ trên các biển gỗ có cọc cắm để người đóng vai làm quân cờ cầm theo. Người cầm quân cờ là những cô gái xinh đẹp, trang phục lộng lẫy, giống nhau; riêng vai tướng thì mô phỏng lệ bộ của quân bài tướng. Càng cầu kỳ trong ăn mặc bao nhiêu thì màu sắc hội càng phong phú bấy nhiêu. Vì quân cờ toàn tuyển các cô gái nhan sắc nên các chàng trai cứ vòng trong vòng ngoài không rời bàn cờ được. Khi đã sắp xếp xong vị trí trên bàn cờ, các quân cờ ngồi xuống ghế đúng ô, điểm của mình. Hai người đấu cờ đi đi lại lại, ngắm nghía tính toán từng nước cờ. Khi họ đi quân nào thì quân cờ ấy tiến theo yêu cầu của họ. Cũng có khi người chơi ngồi ở bàn cao hô nước đi của mình, thì trên bàn cờ có người dẫn quân cờ đi theo ý đồ đó. Quân cờ nào bị đối phương “ăn” thì ra khỏi bàn cờ. Cứ như vậy, người đứng xem vừa bình phẩm về các “quân cờ”, vừa đánh giá nước đi của đấu thủ mà hồi hộp mong đợi kết quả của trận đấu.
Còn rất nhiều lễ hội khác nữa như: Hội làng Đăm, Hội Chùa Hương, Lễ hội hoa, Lễ hội Phong Chúa, rước Vua, Hội làng Lệ Mật… mà những ai từng tham gia một lần đều lưu luyến mãi.