Những bài viết cũ (1)

Published in: on 10/12/2025 at 10:29 Sáng  Gửi bình luận  

Thu cứ là Thu

Hà Nội đã vào độ thu chín. Sớm nay, tôi bỗng thấy góc sân nhà ai hoa sữa rơi ngập đầy. Hương hoa bảng lảng trong gió heo may, một thứ hương vừa nồng vừa dịu, khiến lòng người có chút mơ hồ xao xác. Nắng vàng dịu dàng và gió như sợi khói bé, chỉ là những vệt vô hình nhưng đủ làm một vùng cảm giác trỗi dậy. Bỗng thấy nhớ mùa, dù mùa đang ở đây, hiện hữu đủ đầy trong cảm giác. Tôi ít màng đến ngày tháng in trên lịch hay thông tin trong chương trình dự báo thời tiết, mà dựa vào biểu hiện thực tế để nhận biết dấu hiệu của mùa. Thấy được những biến chuyển từ các chi tiết đó, tôi đã có cả một mùa thu ngập đầy ý nghĩ, mặc dù mùa thu ấy… chưa bao giờ hết mong manh.

Tôi đã gắn bó với Hà Nội mỗi đêm thu êm đềm, mỗi sớm sương mai náo nức, ngày ngày đi đi về về trên từng con đường thân thuộc, chân đã quen bao nếp gạch, bao gốc cây hồn hậu chứa đầy ký ức tháng năm… Bước vào phố tưởng như bước vào làng. Phố gần nhau đến mức chỉ vài bước chân sải qua con đường nhỏ là đã sang vỉa hè bên kia. Hai nhà bên hai phố nhìn nhau thật gần, ới nhẹ một câu đã nghe thấy tiếng.

Hà Nội ba mươi sáu phố phường vẫn đọng chút dáng dấp của thủ đô cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dẫu chẳng còn xe bò bánh gỗ, đòn võng cáng, xe tay kéo, áo chùng dài cùng giày Gia Ðịnh. Những ngày Canh Tân đã vào quá vãng, nhưng đâu đó trên phố phường hôm nay vẫn thấy dấu xưa còn sót lại. Ấy là những ngôi biệt thự cổ từ thời Pháp thuộc với nước sơn vàng ấm và ô cửa sổ sơn xanh đặc trưng. Là mái ngói nâu đỏ rêu phong với nhà ống nhỏ hẹp sâu hun hút. Là không khí kinh kỳ kẻ chợ mà người ở thì thương, người xa thì nhớ, người đã đến thì chẳng muốn rời.

Mùa thu Hà Nội càng làm người ta thấy thú bởi đó là mùa của các thức quà dễ thương. Bánh dẻo, bánh nướng thơm tho. Xôi dừa ngậy béo. Chè hoa cau thanh mát. Bánh đúc, bánh tôm nóng hổi. Bưởi, bòng mọng căng. Ô mai mơ sấu chua ngọt… Thu theo các thức quà ùa đến tay người, len vào từng tầng vị giác, khiến ta thấy mùa vì thế mà thi vị hơn. Và có ai không nhớ vị cốm Vòng ăn cùng chuối trứng cuốc trong tiết trời hây hây gió. Cốm nhờ thu xanh hơn, thu nhờ cốm mà thơm tho hơn. Lá sen ủ cốm cũng được lây hương cốm, cốm lại nép vào lá hít hà hơi sen thoảng nhẹ.

Thu chín sậm trên những nhành hoa cúc. Thu se sẽ trên những lá bàng khô. Thu vàng ươm trên những trái thị thơm. Thu thoảng xanh trên từng hạt cốm nhỏ. Thu rôn rốt trên những trái sấu giòn. Thu ngòn ngọt trên những trái hồng ngâm. Thu đu đưa trên tán cây trứng cá lá xanh chen quả đỏ. Thu nô đùa cả rèm lộc vừng thả tóc mặt hồ. Thu thì thầm với từng nụ sen hồng, sen trắng đang nhiệt thành nở nốt những bông cuối mùa…

Đêm mùa thu, trăng cũng khác. Khác với trăng hè đậm đà nóng bỏng, trăng thu cho ta cảm giác lành lạnh bình yên. Trăng sáng và thanh, vàng nhạt và hơi ngả xanh, như chiếc váy lụa mềm phủ xuống phố phường đang dần chìm vào giấc ngủ. Trăng tràn trề rọi qua từng tán dương xỉ bên bờ tường ẩm rêu, tạo nên một bức tranh thiên nhiên sinh động được vẽ bằng ánh sáng. Giữa trời đêm bao la, con người như được giao hòa trọn vẹn cùng thiên nhiên trong mùa thu ảo diệu.

Một chiều bất chợt, trời bỗng đổ mưa. Cơn mưa thu lúc ào ạt khi rả rích. Những sợi mưa mang theo bao gửi gắm ý nhị từ thiên nhiên. Trong cơn mưa, cây cối nghiêng nhẹ lá cành, rung rung dưới những hạt nước mau thưa. Mưa tưới cho đất ẩm để mầm non đâm chồi, cho cây xanh lớn ngọn. Mưa gột rửa bụi bặm phố phường, xả trôi muộn phiền lưu cữu. Để rồi sớm mai thức giấc, ta được đón ánh mặt trời ló rạng trong không gian sạch tinh đã được mưa tắm gội từ đêm trước. Cơn mưa đi qua, những điều trong veo ở lại.

Hơi giá lạnh đang len lén tràn về. Một ngày thu trong phố, tôi ngồi bên ly cà phê mà nhìn ngắm thiên nhiên. Dưới chân, cỏ mọc xanh rờn bên những khóm hoa khoe sắc tươi xinh. Nắng trong trẻo chiếu dịu dàng qua mái hiên và rơi giọt giọt xuống thềm. Từng chùm hoa nắng nhún nhảy trên đất theo sự xao động của những tán lá đang vẫy gió trên cao. Nơi góc sân, dạ yến thảo rung rinh giọt sương sớm. Khóm dành dành vươn từng chiếc lá thẫm dày lên đón nắng tươi. Khế vẫn còn lác đác những chùm hoa li ti tím. Vòm hoa giấy bung những bông cánh sen rực rỡ. Không gian như ngưng đọng, chỉ có tiếng thở của thời gian khe khẽ lướt qua.

Còn nhớ, những năm trước, cứ đến giữa thu mẹ tôi lại mang chăn bông ra giặt. Có lẽ bởi trong lòng mẹ, thu luôn ngắn ngủi khó nắm bắt. Cái quãng thời gian thu đến ở và đậu lại mỏng manh nhẹ bỗng, khiến người yêu thu không khỏi nôn nao buồn tiếc khi nó nhanh chóng mất dấu sau cơn gió đông mạnh mẽ mới tìm về. Nên trong cái nắng thu hanh hao dịu nhẹ, người ta cứ muốn làm những điều quen thuộc, để được đà đận nghĩ suy về cuộc sống, mơ mộng về sự êm đềm của thời gian, nhớ nhung những ngày đã qua và thắp lên cho mình dự định trong chặng đường sắp tới. Năm nay cũng thế, mẹ đã để nắng thu kịp làm thơm những chiếc chăn bông mềm, gió thu kịp lưu lại hơi hướng trong lòng chăn. Để nhắc thân người lúc cuộn mình trong chăn tránh rét nhớ chút dư vị thu ngọt lành ngấn lại. 

Gió thu vẫn miên man thổi qua những căn nhà hẹp trong phố phường tấp nập. Ai bước chân trong lòng phố, lơ đãng đi qua cả nơi mình đang đến, bởi mải ngắm những mái rêu phủ màu mưa nắng, những bước chân lích chích của mấy chú chim non trên hàng dây điện mắc ngang trời. Chẳng mấy nữa đâu thu sẽ tan biến mất, gió heo may lại nhường chỗ cho gió mùa đông bắc rét buốt hằng đêm. Nhiều lần muốn sống với thu dài hơn, nhưng tự nhủ nếu thu dài quá thì thu sẽ không là thu nữa. Thôi thà thu cứ thế, cứ ngắn ngủi, cứ đến và đi vội vã, cứ non tươi e ấp, cứ mơ hồ mong manh,… để ta còn thấy tiếc nuối mỗi khi thu giã biệt. Để ta muốn lưu mãi khoảnh khắc này vào tâm trí, níu lại gió thu.

Published in: on 10/10/2025 at 7:52 Sáng  Comments (4)  

Bài thứ ba trong sách nhà trường

Published in: on 22/03/2025 at 2:29 Sáng  Comments (4)  

Đường quê

Khi đi trên những con đường làng quê, nghe tiếng lục tục của những chú gà gọi bạn hay tiếng ụt ịt của lợn nhà ai thả rông, thấy mọi thứ quanh mình sao thân thuộc quá! Càng thêm yêu những con đường, những con ngõ mà khi lớn lên, tôi đã thấy chúng ở đó tự bao giờ. Trong tiềm thức tôi, đường làng như người bạn già hiền lành nhẫn nại, luôn lặng thầm bao dung nâng đỡ con người đi qua bao buồn vui cuộc sống. Đường làng ngõ xóm ở mỗi nơi đều mang trong mình những dấu ấn riêng, kết nối với chúng ta bằng thân thuộc gần gũi. Trên những con đường mộc mạc đơn sơ ấy chất chứa bao câu chuyện mưa nắng đời người. Dòng thời gian khắc lên đó những vết khắc đậm sâu, để rồi ta lại tìm thấy chính ta qua hình hài, đường nét của những con đường ngày nào mình cũng đi qua thường khi rất vô tình.

Bà tôi kể về tục cưới xưa, nhiều nơi nhà trai phải nộp cheo bằng gạch mới đúng lệ. Một số làng ở Hà Nội từng có lệ nộp gạch cưới cheo lát đường là làng Trinh Tiết (xã Đại Hưng – huyện Mỹ Đức) hay làng Bát Tràng (xã Bát Tràng – huyện Gia Lâm). Tôi nghe bà bảo một số ngôi làng ở Kinh Bắc thời trước cũng duy trì tục nộp gạch xin dâu như vậy. Ngày ấy, đường đất khi mưa dễ bị lầy lội, trơn trượt nên người trong làng đã nghĩ ra lệ nộp cheo bằng gạch. Nhà trai muốn cưới cô gái của làng thì phải có lễ xin dâu bằng gạch, để đường làng ngõ xóm nơi cô dâu ở có cơ hội được thay da đổi thịt. Số gạch nộp gạch cheo cho làng thường là 200 viên gạch đỏ. Nhà rể nào có điều kiện thì lát gạch nong đôi, còn không thì lát một hàng thôi cũng đã là tươm lắm. Người cùng làng lấy nhau thì số gạch phải nộp ít hơn rể từ làng khác tới. Làng này còn so với làng kia xem làng nào lát gạch nhiều hơn và đẹp hơn, nên những con đường làng thời ấy cứ thi nhau phủ đầy gạch đỏ. Lệ nộp gạch chéo mang ý nghĩa phục vụ lợi ích chung và hơn hết là thể hiện lòng biết ơn của người con trai đối với cha mẹ, chòm xóm nơi người con gái mình lấy làm vợ. Ở nhiều làng quê hiện nay vẫn còn những con đường lát bằng gạch nộp cheo, gợi nhắc về một tục lệ xưa với bao hồi ức thật đẹp. Và như vậy, làng lúc này đã trở thành biểu tượng của lòng ân nghĩa.

Người ta bảo, văn hóa là con đường. Đường không chỉ đơn thuần là lối đi mà đã trở thành biểu tượng, phong tục tập quán đặc trưng của mỗi vùng miền. Đường sinh ra để đưa con người đến những nơi cần đến, và hơn thế, đưa ta bước tới với những giấc mơ đẹp đẽ ngoài kia. Lối đi đi mãi sẽ thành đường và mỗi người lại tạo nên con đường trong tâm trí theo cách của riêng mình. Có ai không có kỷ niệm với con ngõ, con đường nơi mình sinh ra và lớn lên. Ngày nào cũng đi, cũng chạy nhảy, chơi đùa trên con đường, con ngõ ấy… mà mãi sau này ta mới nhận ra nó quan trọng, gắn bó sâu sắc với ta biết nhường nào.

Đường quê nhỏ thôi nên người qua lại có dịp hàn huyên, đùa trêu nhau rộn vui. Ngõ quê gần, nhà nọ ới sang nhà kia, xin hay vay chút gì thiếu, cũng thật tiện. Đường bận rộn chở gốm, đường vấn vít rơm rạ, đường thơm lừng nếp nương, đường xôn xao hương cốm… Những con đường nắng rải rực rỡ khi hạ về, ngập lá khi thu sang. Tháng Ba đỏ ối hoa gạo, tháng Năm ôm ấp rơm vàng, tháng Bảy ngợp ngời phượng cháy, tháng Chín cúc nở xòe bung. Khi đông qua, con đường như dài ra, trầm mặc thủ thỉ cùng những đôi chân đang co ro bước trong tiết trời giá lạnh. Đường hun hút nỗi buồn với những tâm hồn mong manh, đường hoài niệm mơ hồ với những nỗi niềm giấu kín…

Và rồi xuân tới, mang theo hơi ấm của sum họp và yêu thương, đường như bừng thức dậy sau một giấc ngủ đông dài. Những cụm dương xỉ xanh mướt trổ ra từ góc tường rêu thẫm tháng năm. Những viên gạch xưa cũ bỗng tìm thấy mình của ngày nào còn thơm nồng vôi vữa. Đá sỏi hân hoan, cỏ cây reo ca đón Tết, đón theo niềm vui và hy vọng mơ ước ngập tràn. Đường dang tay ôm những người con xa quê trở về và ai cũng thấy hân hoan trẻ lại giữa non tươi của đất trời vừa thay áo mới. Cuối năm, làng xóm vác đào ngó qua nhà nhau khoe mua được cành đào đẹp. Thược dược, lay ơn cùng violet nở bung chào đón Xuân về trong rộn rã. Quất vàng lúc lỉu rung rinh theo xe máy ai về nhà trưng Tết. Lá dong, lạt mềm, thịt lợn, đậu xanh, gạo nếp… nhộn nhịp bày biện trong sân chờ tay người gói. Có tiếng giã giò vẳng ra từ ngõ nhỏ, tiếng dội nước xuống chậu thau rộn vang và cả tiếng tíu tít của lũ trẻ nô đùa nơi sân đình yên ả…

Trời lành lạnh và có nắng nhẹ. Nắng đầu xuân không gắt, chỉ hửng lên dìu dịu, đủ tắm cho mầm cây hé nụ, rọi lấp lánh những viên đá đang nằm thênh thang trên đường quê. Cứ thế, đường gần gũi, đường thân thuộc và đường tươi mới, cần mẫn đưa ta đi qua bốn mùa bằng sự kiên định bền bỉ. Con đường, nơi bước chân ta qua không biết bao lần, vậy mà lắm khi ta lơ đãng. Chỉ đến khi xa nó, rồi lại được quay về sau bao thăng trầm trải nghiệm, mới nhận ra con đường quen thuộc ấy có ý nghĩa với ta biết nhường nào.

Đường làng ngõ xóm vẫn yên ả, lặng lẽ như muôn đời, đón ta bằng sự bao dung thân thuộc. Khi hụt hẫng cô đơn, đường nâng bước ta. Khi sợ hãi chênh vênh, đường an ủi ta… Trên con đường nồng nàn mùi đất, thênh thang mùi rơm rạ, hồn nhiên hương hoa cỏ… ta đã nếm trải đủ buồn vui thấm đẫm và đã sống một đời sống đích thực. Đường quê cứ giản dị, thuần hậu, đơn sơ… mà thành nỗi nhớ, thành niềm suy tưởng của những người con đi xa. Rồi luôn hiện hữu, trở đi trở lại trong nỗi nhớ một tiếng quê hương thân thương, dịu ngọt. Và khi đó, lối đi là lối về!

(Bài của Winlinh đăng trên Heritage số tháng 3/2025).

Published in: on 01/03/2025 at 11:15 Sáng  Gửi bình luận  

Bài viết cũ

Hôm nay được chị Mỹ gửi lại cho bài viết này, thấy có chút bâng khuâng. Bài mình viết từ 2008, tính đến giờ là đã 17 năm rồi. Nhớ những ngày trẻ rong ruổi viết bài khắp nơi. Trong đó mảng trường học cũng viết rất nhiều. Không nhớ cụ thể có bao nhiêu ngôi trường mình đã ghé đến.

Published in: on 28/02/2025 at 12:56 Chiều  Gửi bình luận  

Lễ hội ở Hà Nội

Lễ hội cổ truyền Hà Nội là một trong rất nhiều loại hình, thành tố tạo nên nền văn hoá dân gian Thăng Long – Hà Nội. Đó là sự tổng hoà nhiều nhu cầu tín ngưỡng của người dân với ước vọng cầu mùa, cầu phồn thực, cầu buôn bán phát triển thịnh vượng; biểu đạt sự ngưỡng vọng, mong mỏi và lòng thành kính của nhân dân. Các lễ hội ở vùng văn hoá Thăng Long – Hà Nội bao giờ cũng mang dấu ấn của đời sống thanh bình, thanh tao, lối sống lạc quan, nền nã, sang trọng, có tính thẩm mỹ thể hiện rõ trong cách bài trí, tổ chức cũng như cách tham dự lễ hội. Đặc biệt vào mùa xuân, khi những mầm non tách mình lách ra đón gió nhẹ và mưa rây, không gian rộn lên những xôn xao của một năm mới nhiều hứa hẹn, thì cũng là lúc những lễ hội Hà Nội cuốn con người vào những ngày vui tưởng như không dứt.

Lễ hội Phù Đổng

Rời thành phố để sang các địa phương thuộc Hà Nội xem những lễ hội suy tôn Thánh Gióng, mới thấy hình tượng này trong dân gian có ý nghĩa quan trọng biết nhường nào. Lễ hội Phù Đổng, Chi Nam (Gia Lâm), Xuân Đỉnh (Từ Liêm), đền Sóc (Sóc Sơn) đều có những đặc trưng riêng của mình. Trong số bốn hội trên thì hội Gióng ở Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội) nổi tiếng nhất, thực sự có tổ chức quy củ, nghiêm túc và công phu nhất. Đến đây du khách sẽ được hoà mình vào những màn múa hát thờ thần của phường Ái Lao trong lễ tế. Xem tường tận diễn trận tái hiện sự tích Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân. Chính hội diễn ra vào ngày 9/4 âm lịch, còn trước đó – ngày 6/4 là lễ rước nước từ giếng trước đền thờ Mẫu. Trong các ngày hội sau đó, những trò chơi như lễ cắm cờ, mừng chiến thắng, cáo trời đất, đua tài… diễn ra sôi nổi và đem lại cho người tham dự nhiều hào hứng và lưu luyến khi rời hội.

Hội gò Đống Đa

Hội gò Đống Đa diễn ra hàng năm vào ngày mùng 5 tết Nguyên Đán tại gò Đống Đa, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là lễ hội chiến thắng, được tổ chức để tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung – người anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc và là một trong những lễ hội diễn ra sớm nhất ở Hà Nội sau Tết Nguyên Đán. Vào buổi sáng ngày hội, các vị chức sắc và bô lão trong làng đã tề tựu đông đủ chuẩn bị cho cuộc đại lễ. Đến gần 12 giờ trưa, từ đình làng Khương Thượng đến gò Đống Đa, người ta tiến hành đám rước thần mừng chiến thắng. Sau cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang và đám rước “rồng lửa Thăng Long” là lễ dâng hương, lễ đọc văn với không khí trang trọng. Thanh niên hai làng Đồng Quang và Khương Thượng đua nhau bện rơm thành hình những con rồng lớn và trang trí bằng mo cau và giấy bồi. Một tốp thanh niên mặc những bộ trang phục giống nhau đi quanh đám rước Rồng lửa và biểu diễn côn quyền nhằm tái hiện lại hình cảnh của chiến trận năm xưa, biểu dương khí thế của nghĩa quân Tây Sơn. Sau những nghi thức trang trọng, các trò chơi và biểu diễn nghệ thuật dân gian như múa lân, múa rồng, đấu vật, chọi gà, cờ người, côn quyền, đánh trống… thu hút nhiều người tham gia và cổ vũ.

Lễ hội đền Chúa

Lễ hội đền Chúa diễn ra vào sáng ngày mùng 1/8 âm lịch tại Thôn Viên, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Chùa Anh Linh và đền Chúa là hai di tích kiến trúc văn hóa nghệ thuật gắn liền với sự kiện lịch sử đời Trần chống giặc Nguyên Mông, đồng thời gắn với quá trình chiêu dân, lập ấp thành làng Việt Cổ ở xã Cổ Nhuế với công lao sự nghiệp của Công chúa Túc Trinh (con gái Vua Trần Nhân Tông). Ngày giỗ Chúa có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Sau lễ cúng thực gồm cơm tẻ nấu bằng gạo lật, trám đen muối, muối vừng, giá luộc, canh đậu xanh, tương… người dân lại dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc lên ban thờ. Mọi người còn đem những gì của nhà trồng được, làm ra đến dâng lễ tại đền. Người dân còn thắp hương ngoài rìa đường để cầu xin Chúa ban phúc. Đêm hôm đó tại đền có tổ chức múa lân, múa rồng, hát chèo, diễn tuồng, đọc và bình thơ rất hay, thu hút người đến tham dự đông vui và đầm ấm.

Lễ hội đền Bà Tấm

Đền Bà Tấm thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1939. Trước đây người ta náo nức chuẩn bị cho hội từ ngày 16, đến chính hội là ngày 19 và kéo dài đến tận ngày 25 tháng 2 âm lịch với phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi. Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu… Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Chính quyền địa phương và nhân dân ngày càng tổ chức tốt hơn nên hội thực sự là nơi mọi người mong đến để tham dự, nhất là khi những trò vui dân gian được khôi phục lại ngày càng nhiều.

Lễ hội đền Trèm

Đền Trèm là nơi thờ Lý Ông Trọng nằm ở vị trí bên tả ngạn sông Hồng, ngay trên con đê thuộc xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mở đầu là lễ rước nước được lấy ở giữa dòng sông để phục vụ cho lễ tắm tượng. Sau đó là lễ rước văn, cuối cùng là lễ tụng kinh cầu siêu do thầy chùa phụ trách tiến hành trong đêm Rằm. Khi các nghi lễ tiến hành xong thì mọi người cùng nhau chơi những trò vui quen thuộc: thả chim bồ câu, chèo thuyền, đánh cờ, đấu vật… Những thú chơi tao nhã đó đã phần nào tái hiện lại một hình thức lễ nghi nông nghiệp xưa. Vì thế hội đền Trèm được nhiều người biết đến và rất hứng thú về dự để được hoà mình vào đất và nước của một làng quê nông nghiệp ven đô quanh năm vang tiếng nói cười trong lao động và trong những trò chơi dân gian còn được lưu giữ.

Hội đền Cổ Loa (Hội đền An Dương Vương)

Hội đền Cổ Loa cử hành hằng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng và kéo dài trong khoảng 10 ngày. Trong ngày lễ hội có sự tham dự của dân 12 xóm trong vùng Cổ Loa. Lễ hội mở đầu bằng đám rước Văn Chỉ và kiệu Thành hoàng các xóm sáng mồng 6 tháng Giêng sang đền thờ Vua chủ. Đền Thượng sẽ là nơi cử hành tế lễ, sân đền có cắm cờ ngũ sắc và bày các khí tự: đôi ngựa hồng, ngựa bạch hai bên tả hữu, chính giữa là hương án có bày đồ lễ, hộp kính đựng hia vàng và các đồ ngũ sự cùng với các khí giới của nhà vua. Tuy nhiên tượng nhà vua và chiếc mũ bình thiên vẫn để trong gian thờ. Khi đám rước tới, các tiên chỉ sẽ sắp xếp theo chánh hội tế và cử hành nghi thức tế cổ truyền. Lễ tế thường kéo dài từ lúc quá Ngọ sang Mùi mới xong. Sau khi đội tế của làng Cổ Loa tế xong lần lượt sẽ đến các đội tế khác. Cuối cùng dân làng và du khách vào lễ cầu nguyện nhà vua phù hộ cho thịnh vượng bình yên. Sau buổi tế, dân làng tổ chức rước kiệu thần của 12 xóm và kiệu long đình của nhà vua cùng cung tên, kiếm nỏ, phường bát âm, cờ quạt đi một vòng quanh giếng Trọng Thuỷ về đình Ngự Triều. Đám rước xong cũng là lúc dân làng tham dự hội với những trò vui cổ truyền: đánh đu, đáo, đĩa, các cụ thì chơi tổ tôm, cờ bỏi… Hội cứ thế kéo dài cho tới 16 tháng Giêng mới làm lễ tạ trời đất và đóng đám. Hội đền An Dương Vương còn có một lễ rước rất đặc sắc là lễ rước vua giả làng Nhội làm phong phú thêm cho hội đền An Dương Vương, góp phần thu hút đông đảo người dân Hà Thành và người dân các vùng lân cận đến tham dự. Vì vậy mới có câu: “Chết thì bỏ con bỏ cháu/Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng”.

Hội chùa Vua

Hội chùa Vua ở làng Thịnh Yên (Phố Huế, Hai Bà Trưng) mở từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 9 tháng Giêng. Sau cuộc tế lễ là tới hội cờ: cờ tướng, cờ người, chọi gà, múa sư tử cùng các trò chơi khác. Trong hội thi cờ, cờ người là đặc sắc hơn. Ngoài ý nghĩa trí tuệ mà các kỳ thủ phải vận dụng, nó còn mang ý nghĩa nghệ thuật cao qua trang phục của quân cờ do người đóng. Một bàn cờ kẻ bằng vạch vôi trên sân chùa, ba mươi hai quân cờ được kẻ vẽ trên các biển gỗ có cọc cắm để người đóng vai làm quân cờ cầm theo. Người cầm quân cờ là những cô gái xinh đẹp, trang phục lộng lẫy, giống nhau; riêng vai tướng thì mô phỏng lệ bộ của quân bài tướng. Càng cầu kỳ trong ăn mặc bao nhiêu thì màu sắc hội càng phong phú bấy nhiêu. Vì quân cờ toàn tuyển các cô gái nhan sắc nên các chàng trai cứ vòng trong vòng ngoài không rời bàn cờ được. Khi đã sắp xếp xong vị trí trên bàn cờ, các quân cờ ngồi xuống ghế đúng ô, điểm của mình. Hai người đấu cờ đi đi lại lại, ngắm nghía tính toán từng nước cờ. Khi họ đi quân nào thì quân cờ ấy tiến theo yêu cầu của họ. Cũng có khi người chơi ngồi ở bàn cao hô nước đi của mình, thì trên bàn cờ có người dẫn quân cờ đi theo ý đồ đó. Quân cờ nào bị đối phương “ăn” thì ra khỏi bàn cờ. Cứ như vậy, người đứng xem vừa bình phẩm về các “quân cờ”, vừa đánh giá nước đi của đấu thủ mà hồi hộp mong đợi kết quả của trận đấu.

Còn rất nhiều lễ hội khác nữa như: Hội làng Đăm, Hội Chùa Hương, Lễ hội hoa, Lễ hội Phong Chúa, rước Vua, Hội làng Lệ Mật… mà những ai từng tham gia một lần đều lưu luyến mãi.

Published in: on 20/02/2025 at 8:55 Chiều  Gửi bình luận  

Nhớ bếp

Xa bao lâu mới về, cuối năm rồi, về để sà vào bếp lửa tìm lại hơi ấm nồng nàn của những kỷ niệm ấu thơ. Trở về, nghe lòng mình rộn lên một nỗi nhớ, tựa hồ dòng nước quê hương đang chảy dạt dào trong huyết quản. Dù bếp kia một ngày nào vắng mẹ, vẫn không lạnh lẽo bao giờ. Ngọn lửa vẫn cháy như nụ cười chưa bao giờ tắt trên đôi môi dịu dàng của mẹ tôi.

Than hồng xua tan đi cái lạnh lẽo còn rơi rớt của mùa đông, hân hoan cho một mùa xuân mới. Rơm rạ góp màu vàng thổi lên từ những mùa màng bội thu. Trấu mịn màng tìm chai đóng khuôn đỏ lửa. Củi thơm tho, đậm đà vun vén cho hy vọng một năm mới bình an, đủ đầy… Xuân đang tới, đào mai đang hé nụ, quất vàng như những đốm nắng treo trên lá xanh trĩu nặng và hương trầm thơm quấn quýt trong mỗi căn nhà….

Dù chỉ là cái bếp đơn sơ như bao cái bếp Việt Nam khác, nhưng đối với mỗi chúng ta, gian bếp nhà mình luôn in đậm trong tâm tưởng như một niềm an ủi những khi buồn, những khi cô đơn cần tìm hơi ấm. Một góc ám khói, củi dựng xó bếp cho chóng khô, hành tỏi, mắm muối, nồi niêu xoong chảo để trên giàn bếp, lửa hồng mời gọi sum vầy. Căn bếp nhỏ không chỉ là nơi nấu nướng mà đã trở thành nơi thủ thỉ, tâm sự gần gụi của bà, của mẹ, của chị. Một ít bùi nhùi làm bùng lên ngọn lửa, trấu âm ỉ cháy giữ hơi cho ấm chè mùa lạnh. Bếp như một lời hẹn cho những ai ở nơi xa xôi mong ngày đoàn tụ.

Tôi vẫn hình dung rõ dáng mẹ mỗi sớm nấu nước, nấu nồi cám cho lợn. Tôi vẫn nhớ như in mẹ nhóm củi từ tờ mờ sáng. Ngọn lửa nhỏ từ que diêm chuyền sang đóm, áp vào những thanh củi khô giòn nắng, bùng lên cao vút, sáng bừng cả gian bếp. Mẹ bắc nồi lên, tiếng củi nổ lép bép. Tôi mắt nhắm mắt mở mò xuống bếp ngồi thu lu gục đầu trên tay mẹ để tìm hơi ấm sực. Mẹ bảo “mai mua lá dong là vừa, hai mấy tháng chạp rồi còn gì”. Mắt tôi sáng lên khi nghĩ tới những chiếc bánh chưng xanh mướt vuông vức ăn cùng hành muối và giò lụa.

Lá dong được lựa kỹ, rửa sạch, lau khô. Này gạo nếp, này đậu xanh mẹ đã chuẩn bị sẵn. Này nồi to, này lạt buộc, củi xếp thành hàng, ba đã đợi từ lâu. Thế là lửa lại reo, tôi lại được tưới tắm trong ánh hồng ấm áp, có mọi người quây quần cùng trông lửa và đợi bánh chín. Tôi thường ngủ quay ra sau khi háo hức được vài tiếng đầu. Đến khi bánh chín tôi mới tỉnh, để rồi lại tiếc không được đẩy củi trông bánh chưng. Cũng tại hơi ấm nóng của củi lửa đã đưa tôi vào những giấc mơ ngày tết tung tăng áo mới.

Chiều cuối năm, bánh chưng đã được bày lên bàn thờ cùng xôi gà, ngũ quả. Khói bếp mái rạ vẫn còn vương trên những ngọn tre. Lửa vẫn le lói giữ ấm cho nồi cháo mẹ ninh ăn đêm cuối năm. Cho đến gần giao thừa, mẹ tắt lửa, thắp thêm tuần hương rồi gọi cả nhà cùng quây quần chờ năm mới đến gõ cửa. Mẹ bao giờ cũng thế, năm nào cũng thế, say sưa chờ từng khắc trôi qua, thi thoảng lại ngước lên bàn thờ, nhìn hương tỏa khói vòng vòng thơm trầm ấm, mắt lấp lánh xa xôi. Bếp tắt lửa nhưng không lạnh hẳn, hãy còn âm ấm, đủ cho mèo con ngủ vùi, lười không muốn dậy chờ xuân tới.

Lớn rồi, vẫn luôn muốn tìm lại kỷ niệm những lần vùi khoai vào tro nóng, lôi ra cầm bỏng rẫy cả tay. Chỉ chờ tết, chờ cơ hội xum họp gia đình để thấy mình không bị lẻ loi và xa cách với những ngày ấu thơ. Bây giờ, ai hỏi đi xa nhớ gì nhất, tôi không ngần ngại nói “nhớ bếp”.

Khi lạnh lẽo, cô đơn, lo lắng, tôi lại đốt một ngọn lửa nhỏ, huơ hai bàn tay lên cho đỏ hồng để tìm về cảm giác bếp lửa mẹ tôi. Thầm cảm ơn những mùa xuân đã cho tôi được trở về bên mẹ, bên gia đình thân yêu, bên gian bếp nhỏ, bên những ngọn lửa cháy sáng nồng nàn.

Mùa xuân này, tôi nhất định thức đợi bánh chín bên ngọn lửa hồng mẹ nhóm từ que đóm ba chẻ chiều qua.

(Trích đoạn bài viết của Winlinh đăng trên báo Xây dựng số Xuân năm 2004)

Published in: on 24/12/2024 at 3:21 Chiều  Gửi bình luận  

Đặc sản ngày xuân

Đã hết rồi cái thời nhà nhà đua nhau mua, trưng sơn hào hải vị ngồn ngộn cầu kỳ trong dịp Tết. Giờ đây, những món ăn thuần Việt đậm đà bản sắc vùng miền đang trở thành sự lựa chọn hàng đầu của người dân. Ngày tết thảnh thơi, ăn những món thuần Việt, thấy mình thấm đẫm hồn cốt Việt và được trở về với giản dị quê nhà trong trẻo ấu thơ.

Nem chua Thanh Hóa

Nem chua Thanh Hóa từ lâu đã nức tiếp khắp nước. Ai đã ăn nem chua nơi này hẳn khó quên mùi vị đặc trưng của nó. Không ngọt như nem miền Nam và cũng không cay như nem Huế, nem Thanh Hóa vị thanh dịu, cay vừa đủ nên phù hợp với khẩu vị nhiều người. Trong các dịp lễ tết, mâm cỗ của người Thanh Hóa (và giờ còn là ở cả một số nơi khác) không thể thiếu món nem. Để có được hương vị nem chua được ưa thích như hiện tại, người làm nem xứ Thanh đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu và chắt lọc, cho ra một đặc sản nức tiếng muôn nơi. Trong không khí xuân rộn ràng, những cuộn nem ủ trong lá chuối xanh mướt được bung ra, mang tới niềm hân hoan cho mỗi người bên mâm cơm sum vầy ấm cúng.

Nem được chế biến qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu tới khi gói sản phẩm. Lợn để làm nem phải là lợn mới thì nem sẽ có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men. Bì lợn phải cạo chín bằng nước sôi và lạng sạch mỡ bên trong. Thịt và bì khi đã hoàn thiện sẽ được trộn cùng thính gạo, muối, đường, nước mắm… rồi gói trong lá chuối. Khi gói nem, không thể thiếu tỏi, lá đinh lăng, ớt để tăng mùi vị hấp dẫn và giúp cân bằng ấm lạnh cho dạ dày. Nem gói khi đã chín sẽ hồng màu hồng của thịt và trắng trong màu của những sợi bì. Chút tỏi, tiêu ớt, đinh lăng quện cùng giòn bì thơm thịt chấm cùng tương ớt  khiến ai ăn dù chỉ một lần khó có thể quên.

Cháo lươn Nghệ An

Nhắc đến lươn, người ta không thể không nhắc đến lươn Nghệ An. Cháo lươn, súp lươn là một trong những món ăn đặc sản mang lại tự hào cho người dân xứ Nghệ.

Cháo lươn là món không thể thiếu trong đời sống người dân nơi đây. Khi nấu cháo, thịt lươn được lọc ra để xào với nghệ, hành tăm và ớt. Xương thì được giã giập lọc lấy nước để ninh cháo cho ngọt. Lươn thường để nguyên không chiên rán nên vẫn giữ được vị ngọt mềm của thịt, đem cho vị giác một cảm nhận rất thật rất sâu. Cháo nấu thường pha thêm chút nếp cho sánh, dù hạt gạo không say nhưng vẫn nhừ bung tơi vì đã được ninh nhừ. Khi ăn thường được nêm nếm gia vị tiêu ớt và không thể thiếu lá ngổ, hành tăm để làm dậy mùi. Súp lươn cũng được người dân bản địa và khách thập phương ưa chuộng. Súp lươn sánh đậm, vị cay nồng kết hợp với bánh mì hoặc bánh cuốn rất ngon. Nước dùng của súp còn được ninh từ xương sống của lươn với xương bò, heo để ra một thứ nước thơm ngon đặc trưng. Ngày tết, sau những cơn say mệt, ai được ăn bát cháo, bát súp lươn sẽ thấy khỏe và tỉnh hẳn người.

Bánh bèo Huế

Ở Huế, đâu đâu cũng thấy bánh bèo. Bánh bèo được các mẹ, các chị… gánh đi rao bán từ đường làng, ngõ phố, bến sông, góc chợ đến các tiệm bánh lâu đời được rất nhiều du khách tìm tới. Từ lễ hội lớn, đến ngày tết, hay ngày giỗ cho đến trong bữa cơm hàng ngày, hay bữa ăn đãi khách phương xa thân mật, tất cả đều có món bánh bèo hiện diện trên mâm cỗ

Bánh bèo được làm từ bột gạo, tráng thành những chiếc bánh mỏng tang trắng trong và rồi hấp chín bằng hơi. Khi bánh chín thì rắc tôm băm nhuyễn lên cùng hành lá, dầu thực vật và chấm nước mắm nguyên chất pha với mỡ đường và tỏi ớt rất vừa miệng. Thường bánh bèo được bày trên các chén nhỏ, trên rắc nhụy tôm hồng giã nhuyễn. Màu trắng tinh khiết của bánh hòa cùng màu hồng tươi tôm tạo nên sự ngon miệng khi thưởng thức. Ăn bánh bèo đúng nghĩa phải là bánh được làm trong từng chén nhỏ và được sắp trên mẹt tre. Được thưởng thức những chén bánh bèo thơm ngon bên một giọng hò Huế, mới thực sự cảm nhận được sự tinh tế và lắng đọng của văn hóa và ẩm thực nơi đây.

Bánh ít Bình Định

Bánh ít lá gai là đặc sản của người Bình Định và ngày nay cũng rất phổ biến ở các tỉnh ven biển miền Trung vì mùi vị độc đáo và cuốn hút của nó. Để làm được chiếc bánh ít đạt tiêu chuẩn, người làm bánh phải chuẩn bị rất nhiều khâu từ lá đến nhân đến củi lửa. Lá gai trước khi gói phải rửa sạch rồi luộc chín. Gạo nếp ngâm cho mềm rồi xay nhuyễn cùng với lá gai và chút muối trắng. Xay xong thì đổ hỗn hợp bột với lá gai vào túi vải để bột ráo nước. Đến đoạn nhào bột cũng phải thật kỹ, đến khi bột dẻo thì chia thành từng cụm vừa phải để làm bánh. Nhân bánh có thể dùng nhân dừa, nhân đậu đen hay đậu xanh hoặc đậu phộng nhưng luôn phải thêm chút gừng, chút đường cho nhân ngọt thơm. Có nhân có bột, người gói bánh tỉ mỉ nặn từng chiếc bánh, lá đã ráo nước, cứ thế mà gói rồi đem hấp cách thủy. Bánh chín vớt ra để nguội là đã có thể ăn.

Bánh ít được dùng để cúng tổ tiên trong những ngày lễ tết, giỗ chạp. Sau đó, mọi người thụ lộc ấm cúng bên nhau cùng ly trà nóng. Hương thanh ngọt dẻo của bánh quyện với vị nồng của gừng, vị bùi thơm của đậu cùng vị đắng của trà khiến người ăn không chỉ ăn để no mà ăn để tận hưởng. 

 

Published in: on 21/12/2024 at 5:59 Chiều  Gửi bình luận  

Làng cổ Lỗ Khê

Cũng như bao làng xóm của đồng bằng Bắc Bộ, có khác chăng là ở đây có một không gian cổ, thấm đẫm tâm hồn Việt, một nơi thuần phác mà ai đã ghé về không muốn rời xa.

Lỗ Khê là một làng ra đời sớm ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có gốc gác từ thời Kinh Dương vương Lạc Long Quân (2879-258 trước công nguyên). Làng nằm trên triền sông cổ Hoàng Giang. Trước thuộc phú Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (Từ Sơn, Bắc Ninh). Kể từ năm 1961 thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Cách Hà Nội chẳng bao xa, nhưng đời sống nơi đây dường như không bị một chút ảnh hưởng nào của nơi phồn hoa đô hội. Người đến đây cứ như lạc vào một chốn xưa xa lắm. Sử sách dẫn rằng: “Lỗ Khê phong thổ tả hữu cùng thiên sơn vạn thủy, thế nhẹ long bàn, tiền hậu liên thất diệu tam thai hình như phượng vũ“.

Theo truyền thuyết, từ thời Hùng Vương thứ 6, gái làng nấu cơm cho ông Gióng ăn, cơm nấu bị khê nên binh lính gọi là con gái làng Khê. Chữ “Lỗ” là tên đầu của các làng trên cùng một dải đất (Lỗ Khê, Lỗ Giao, Lỗ Đông, Lỗ Thù, Lỗ Hương, Lỗ Dong). Chữ “Khê” mang địa điểm địa hình lắm lạch khe, chữ “Khê” là khe núi chảy từ núi ra. Làng có tên là Lỗ Khê duy nhất từ bấy đến giờ.

Nơi đây tương truyền rằng thời cổ là một khúc sông cụt có nhiều khe ngòi vùng lỗ chỗ, như những lỗ rốn chứa đựng màu mỡ, có mỏ than bùn gần 20 vạn mét khối. Cho đến nay, ngành địa chất khảo sát đã công bố ở khu vực này có mỏ than bùn trên 16 vạn mét khối. Dân làng cũng đã khai thác hàng ngàn tấn làm chất đốt và phân bón. Huyện Đông Anh và thành phố Hà Nội đã mở xí nghiệp khai thác trong 21 năm (1964 – 1985) để chế biến phân vi sinh từ tài nguyên thiên nhiên này.

Làng chủ yếu thuần nông, mùa cấy gặt thì cá làng ra đồng. Những khi nông nhàn thì làm bánh trưng xanh, bánh tro, nấu rượu nếp cái hoa vàng bán cho các nơi lân cận. Chúng tôi đã được gia đình anh Hải mời nếm miếng bánh chưng, bánh đúc, chè kho của làng. Đúng là lời khen không ngoa, bánh chung từng khoanh tròn được cắt ra mềm và mịn. Đỗ xanh và thịt quện vào nhau, bánh thơm mùi nếp, mùi đỏ và cả mùi rơm lăn bánh sau khi luộc.

Người dân giỏi lam giỏi làm và cùng vô cùng hiếu khách. Ai đến đây, chẳng cần quen biết cũng không ngại, mọi người sản sàng mời cơm, mời những đặc sản của làng mà không hè có sự cảnh giác, dò xét. Đó là những nét đẹp hồn hậu, giản di mà không phải nơi nào cũng có được. Bà cụ Thi đang cõng cháu cũng hồ hởi chạy ra khoác tay chúng tôi chỉ xem nhà mình, khoe vườn cây trái xum xuê và tíu tít mời vào uống ngụm nước trong.

Bác Nghiệp sở hữu căn nhà cổ say sưa kể về những năm tháng đi chiến trường, bôn ba bên Lào và cuối cùng hồi tưởng lại kỷ niệm về căn nhà mình đang sống với một tâm trạng xúc động, tự hào. Nhà lợp ngói mui hài, cột nhà bằng gồ xoan lời, ông cụ thân sinh ra bác khi làm ngôi nhà này cũng rất kỳ công, ngâm gỗ ở ao làng cả năm trời, nên sau bao nhiêu năm mà gồ vẫn không bị mối mọt, thời gian càng làm nó đen bóng, chắc chắn hơn. Dải cánh phong đấu cái thì vẫn còn nguyên. Đặc biệt nữa là ba máng tường chính của căn nhà đều có hình vẽ.

Những họa tiết tưởng giản đơn những nhìn kĩ thì thật thú vì sự tinh tế trong từng nét vẽ người thợ. Đó là triện đan nong mốt, không hề chồng đè lên nhau, cũng không hề bị lỗi. Nền nhà lát xi măng nện chặt, dưới bàn uống nước chúng tôi đang ngồi, ông chỉ, là nơi đào hầm trú ẩn những năm chiến tranh, giờ đã nện lại nhưng vẫn thấy đường gờ nổi rõ. Căn nhà trái qua bao nắng mưa như không biết đến già nua. Những cánh cửa có mối mọt, có cong vênh song ông cũng không có ý định thay thế vì muốn giữ lại những kỷ niệm của cha ông tiên tố, giữ lại bản sắc văn hóa truyền thống cho làng mình.

Khắp đường làng ngõ xóm đâu đâu cũng đỏ và nâu một màu gạch, ngói. Những mái ngói thẩm màu tháng năm, những mảng tường trơ mạch vữa, những lối đi lát gạch chỉ là dấu ấn không thể quên của làng. Có nhiều viên gạch vì quá lâu rồi, mùn cả ra một thứ mùn đỏ au như bột vẽ.

Tôi không nghe thấy trong làng có những âm thanh náo động của karaoke, của trò chơi điện tử hay nhạc trẻ, nhạc vàng. Không gian và thời gian như ngưng đọng, thảng hoặc chỉ có tiếng chó sủa và tiếng trẻ nô đùa, tiếng chào gọi nhau thân thuộc trong những lối đi sạch sẽ.

Lô Khê còn là đất tổ của ca trù, cái nôi sinh ra ngài Đinh Dự – vị tổ sư của di sản văn hóa quý báu này. Hiện nay vẫn còn cụ Mùi là người giỏi và có thâm niên nhất về ca trù. Cụ cũng truyền lại cho những người yêu thích loại hình này, nhưng quả thực số con cháu theo đuổi nó không được nhiều như những thế hệ đi trước đầy tâm huyết mong muốn. Dân làng hàng năm mở hội “Kỳ Phúc” vào tháng Giêng, từ mùng 1 đến mùng 10. Ngày giỗ tổ 12/1 cũng là ngày tổ chức hát ca trù, tưởng nhớ đến Mãn Hoa công chúa và ngài Đinh Dư cùng những người có công cho sự ra đời và phát triển của ca trù.

Làng đã được công nhận là làng văn hóa và chùa Bụt Mọc cũng như nhà thờ ca công được nhiều người biết đến và được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử văn hóa vào năm 1989 khiến người dân nơi đây vô cùng tự hào. Tiếc rằng vẫn còn một số người chưa có ý thức bảo vệ, gìn giữ không gian sống của mình. Họ phá căn nhà của ông cha để lại và xây dựng những nhà mái bằng, nhà tầng khang trang. Rồi một số khu nhà cơi nới, sửa chữa, chắp vá cũ mới rất thiếu thẩm mỹ cũng làm người yêu sự những vẻ đẹp nguyên sơ, xưa cũ, cổ kính đau lòng. 

Phong trào mua đất ngoại thành đã bắt đầu len lỏi vào vùng làng quê yên ấm này. Người tứ xứ nườm nượp lâu đổ về tậu đất, cất nhà biệt thự và mở nhạc xập xình. Những cò đất thi thoảng lại nhòm ngó những chỗ ngon ăn để buôn qua bán lại, cho người ta kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn và những thứ ồn ào khác. 

Rất cần có sự quan tâm và ý thức của mỗi người để không gian kiến trúc văn hóa này không bị mai một từng ngày. Thành phố Hà Nội đã có dự án tôn tạo lại môi trường cảnh quan tổng thể của làng, tiếp tục có biện pháp gìn giữ những giá trị lịch sử văn hóa quý báu còn sót lại. Đồng thời chủ trương xây dựng Lỗ Khê thành làng du lịch sinh thái để phát huy những nét đẹp vốn thu hút khách tham quan, du lịch. Ngoài việc dịch chuyển sân bóng, xây chợ quê, nới rộng vườn chùa… thì việc tu sửa, tôn tạo lại một cách trung thành nhất với kiến trúc cũ của năm cổng làng cũng là việc vô cùng quan trọng, cần được bàn bạc kỹ lưỡng. Để làm sao làng vẫn giữ được vẻ đẹp thuần hậu, không lai tạp, khách tham quan không thấy tiếc nuối một ngôi làng cổ chỉ còn trong dĩ vãng khi cảm giác trên lối đi có những cái gai cứ chắn trước mắt nhìn.

Nhớ ngày đó trẻ măng mới ra trường đi về làng cổ Lỗ Khê ở Đông Anh viết bài cho Pacific Airlines, còn được vào nhà bà con ở đó ăn cơm nữa. Làng Lỗ Khê rất bình yên, cảnh đẹp và trong trí nhớ mình lúc đó có giàn bầu quả lúc lỉu, những ô mạ xanh trong sân, xe đạp cũ, quang gánh treo trái nhà, những mảng gạch đỏ và rêu phong trên những bức tường trong từng con ngõ hẹp. Mình còn nhớ ở đó có sân đình và một hồ nước rất nên thơ, có một cái cây to ngay hồ nước, mình đã ngồi đó hóng mát.

Published in: on 14/11/2024 at 2:25 Sáng  Comments (4)  

Trường huyện

Phượng đã chớm xòe những nụ hoa rực màu đỏ chói, những tán lá xanh theo nhau xà xuống mái ngói nâu loang lổ rêu. Tôi bước chậm theo dãy hành lang vắng, nhìn qua từng cánh cửa gỗ xanh của các lớp học, không gian yên ắng quá! Cảm giác xôn xao thân quen vẫn rất gần đâu đây, mới hôm qua thôi trong những căn phòng kia còn vang lên tiếng nói cười ròn rã, vậy mà hôm nay bàn ghế đã im lìm. Thế là tôi lại trở thành người cán bộ thủ thư nhàn rỗi.

Ngày hè đến, lớp lớp học sinh cùng xếp sách vở lại chuẩn bị cho kỳ nghỉ hứa hẹn nhiều thú vị. Chỉ có tôi, đã bao năm rồi trải qua những ngày hè lặng lẽ, là không bao giờ mong chờ mùa hạ về. Dù những ngày nghỉ hè đó tôi vẫn thường xuyên cùng các bạn đồng nghiệp đến trường tiếp tục công việc xử lý sách, nhưng sự vắng vẻ khiến tôi thiếu hẳn hào hứng. Dù cho có thêm nhiều thời gian để nghỉ ngơi, để chăm sóc gia đình, có thể thoải mái làm những việc riêng tư… nhưng cảm giác trống vắng cứ quấn lấy, khiến lòng dạ thật nôn nao, hệt như tâm trạng ngày nào tôi rời trường phổ thông trung học…

Tôi làm thủ thư trong một ngôi trường huyện – ngôi trường nằm ngay ngã ba rẽ vào phố núi. Tốt nghiệp trung cấp thư viện, tôi may mắn được về đây công tác, được gần nhà và được làm việc tại nơi tôi hằng mơ ước. Mỗi ngày đi làm, tôi thỏng thả đạp xe trên những con dốc dài mờ sương, ngắm từng nhánh cỏ hoa còn ngái ngủ bên đường. Tôi thường đi sớm để được thảnh thơi hòa mình vào thiên nhiên quang đãng, trong lành, tiếp thêm năng lượng cho một ngày làm việc hiệu quả. Có nhiều em học sinh cũng đến trường sớm như tôi, từng tốp học sinh đi bộ với cặp sách trên vai vừa đi vừa tíu tít cười đùa… Tôi thấy được ở đó tuổi thơ của tôi, thời học sinh đầy thơ mộng hồn nhiên, sống với thế giới trong trẻo của bàn ghế, sách vở không chút muộn phiền.

Không như độc giả vào thư viện khi cửa đã mở, thủ thư đã ngồi ở đó và những cuốn sách đã sẵn sàng từ lâu, người thủ thư phải là người đầu tiên bước vào thư viện, bắt đầu tất cả để khởi động một ngày làm việc mới. Tôi đã thật quen cái không gian im ắng sớm mai với những dãy bàn còn vắng vẻ, những giá sách nằm  lặng im như chưa dứt khỏi cơn mê đêm trước. Mở tung cửa cho ánh sáng tràn vào đánh thức căn phòng, tôi đã lại thấy hương sách quen lan tỏa. Sự phấn khởi trong tôi từ những điều nhỏ bé như thế được tích tụ dần dần thành tình yêu sâu đậm với nghề. Và tôi biết tôi chỉ muốn làm một thủ thư giản dị chứ không muốn làm một việc gì khác nữa, dù trong con mắt nhiều người công việc của tôi thật tẻ nhạt. Có lẽ để có thể yêu nghề người ta phải thực sự sống với nó bằng tất cả niềm vui, nỗi buồn, sự tận tụy, cống hiến với tinh thần tự nguyện nhất.

Trường huyện không có nhiều trang thiết bị như các trường tỉnh, thành phố. Nơi tôi làm việc chỉ có hai máy tính cũ dành cho cán bộ xử lý sách và lưu giữ tài liệu. Học sinh trường huyện cũng không có nhiều cơ hội được tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau, nên thư viện chính là nơi các em thường tìm đến nhất. Những học sinh nơi đây lại có ý thức học tập rất cao, các em chủ yếu là con em cán bộ công nhân viên chức trong huyện và một số là con nhà nông với ruộng nương cày cấy nên đa phần là chăm ngoan, học giỏi. Trường chuyên này là nơi để các em rèn luyện khả năng nổi trội của mình trong các môn học với mong ước được vào các trường đại học, được tham dự những cuộc thi của huyện, của tỉnh… để tiếp tục con đường khám phá tri thức dài lâu. Ngoài thời gian học trên lớp, các em thường rủ nhau vào thư viện đọc sách để nâng cao kiến thức, củng cố lại những bài đã học, tìm tài liệu ôn luyện cho kỳ thi sắp tới. Thường những sách tham khảo và sách truyện được các em mượn nhiều nhất. Còn mỗi khi có các cuộc thi tìm hiểu sự kiện lịch sử, những tấm gương anh hùng… thì những sách có chủ đề liên quan được các em thi nhau mượn rồi truyền tay nhau chép lại những dẫn chứng cần thiết cho bài dự thi của mình. Ý nghĩa công việc của chúng tôi là được thấy các em đến thư viện mỗi ngày, nâng niu thẻ mượn và tấm phiếu yêu cầu trên tay, ánh mắt ngời sáng mong chờ từng cuốn sách. Tôi cảm thấy như chính mình đang mang đến cho các em niềm vui được khám phá, học hỏi đó, và tôi thầm nhủ cần phải làm tốt hơn nữa công việc của mình. Tôi thường xuyên tham khảo thêm các sách chuyên môn, tích cực tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về nghiệp vụ thư viện, cập nhật thông tin mới về chuyên ngành của mình để có thể nâng cao hơn kỹ năng xử lý sách, nắm vững hơn đường đi của sách từ lúc bổ sung cho đến khi tới tay bạn đọc. Tôi cũng tranh thủ thời gian đọc những sách có trong thư viện mình đế có thể trả lời những câu hỏi của các em về chủ đề, nội dung sách mà các em cần, hướng dẫn các em lựa chọn sách đúng phương pháp nhằm đem lại hiệu quả cao và tiết kiệm thời gian, công sức cho học sinh. Làm cán bộ thủ thư, nhưng tôi cũng được các em gọi là “cô giáo”. Cảm giác của tôi những lúc ấy thật hạnh phúc và càng thêm yêu nghề, yêu công việc tôi đã gắn bó suốt 18 năm nay.

Tôi còn nhớ vào một ngày cách đây 8 tháng, đó là ngày khai giảng của trường tôi. Hôm ấy tôi vui lắm vì đã được trở lại nhịp sống sôi động sau bao ngày hè vẳng tiếng giảng bài đều đều trong các lớp học, vắng tiếng nô đùa trong những giờ ra chơi… Nắng hôm đó chan hòa, óng như mật, sân trường nở rộ những khóm cúc vàng như từng đốm nắng nhảy nhót vui nhộn. Những em học sinh xúng xính trong bộ đồng phục mới xếp hàng đều tăm tắp đi vào khu vực có biển hiệu ghi tên lớp mình. Tiếng trống giục rộn rã, tiếng hát quốc ca hào sảng, lời tuyên thệ của học sinh hứa hẹn một năm học mới thu được nhiều kết quả cao… khiến tôi rưng rưng xúc động nhớ lại thuở học trò ngày nào.

Như bao năm khác, tôi cùng các bạn đồng nghiệp mặc áo dài tập trung ở phía trái khán đài. Nhìn xuống sân trường rợp cờ hoa, rợp áo trắng và những khuôn mặt xinh tươi, tôi phấn chấn và mừng vui như mình chính là một học trò được đi học vậy. Bỗng nhiên có một tiếng nói nhẹ vang bên tai tôi “Cô, cô ơi”. Tôi quay lại, một em học sinh đang đứng phía sau, khẽ kéo lấy tà áo tôi và đặt vào tay tôi một chiếc hộp nhỏ, cô bé chỉ kịp nói “Em tặng cô” và chạy nhanh vào đám đông học sinh vẫn đang đứng ngay hàng thẳng lối chuẩn bị tiến vào lớp nghe cô giáo dặn dò kế hoạch học tập sau giờ khai giảng. Tôi bất ngờ quá, không kịp nói gì với em, ngẩn ngơ mất một lúc. 

Sau đó đọc tấm thiệp của em tôi mới nhận ra đó là Thu Trang, học sinh lớp 8B đã từng nhờ tôi hướng dẫn tìm tài liệu vào năm học trước. Em viết cho tôi một mẩu giấy nhỏ với lời cảm ơn chân thành vì tôi đã giúp em hoàn thành xuất sắc bài dự thi tìm hiểu về tấm gương người tốt việc tốt và giành được giải nhất toàn Tỉnh. Một chiếc khăn mùi xoa thơm ngát hương nhài. Cảm giác của tôi khi áp chiếc khăn vào má thật ấm áp. Không ngờ công việc thầm lặng của tôi còn được các em nhớ tới. Tôi lại càng thấy có thêm động lực để đi tiếp trên con đường mình đã chọn, dù con đường đó không hẳn đã bằng phẳng, không thực sự đem lại cho tôi một cuộc sống đủ đầy.

Hết giờ làm việc, tôi đóng cửa phòng đọc lại và đi một vòng trong khuôn viên. Gặp anh bạn đang lặng lẽ bước ra từ Khoa Toán dãy nhà C cuối sân trường, cũng cảm nhận được nỗi trống vắng từ anh. Chợt thấy vương trên mặt đồng nghiệp mình những nếp nhăn chớm đến, dấu vết của thời gian hằn lại sau những đêm soạn giáo án, những buổi sáng dậy sớm chấm bài, nỗi buồn khi phải xa học trò mình khi kết thúc năm học… Người giáo viên thường được ví như người chèo đò đưa từng lứa học sinh sang sông, rồi biết ai có nhớ quay lại bến sông ngãy cũ… 

Bỗng nao nao buồn vì thời gian trôi đi nhanh quá, chẳng mấy chốc mình cũng lại phải rời xa ngôi trường thân thương, rời xa phòng đọc gần gũi với sách báo và các bạn đọc hồn nhiên. Nắng đã xuống đến những khóm hồng lúp xúp mọc trước cửa các lớp học. Nhìn lại tất cả một lần nữa, hứa với lòng mình sẽ cố gắng làm tốt nhất những gì có thể, để không bao giờ phải ân hận khi rời xa các em.

Published in: on 29/10/2024 at 2:45 Chiều  Gửi bình luận  

Mùa vàng Tây Nam Bộ

Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có khí hậu cận nhiệt đới nóng ẩm, đất đai giàu dinh dưỡng, hệ thống sông ngòi dày đặc, lượng nước ngọt dồi dào, diện tích canh tác lớn và bằng phẳng… nên rất phù hợp cho việc thâm canh cây lúa. Về miền Tây Nam Bộ vào mùa lúa chín, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng và choáng ngợp vì quang cảnh sắc nơi đây đẹp như tranh vẽ. Những cánh đồng vàng rực cò bay mỏi cánh giữa ánh nắng chan hòa lấp lánh. Những đợt sóng lúa rì rào lượn theo từng cơn gió bát ngát đùa vui. Mây trắng xốp giăng từng cụm bồng bềnh trên nền trời cao xanh khoáng đạt. Con sông hiền hòa xôn xao tiếng chèo khua rộn vang sóng nước…

Đồng bằng sông Cửu Long được xem là vựa lúa lớn nhất Việt Nam, mỗi năm thu hoạch lúa tới bảy lần, chiếm gần 60% sản lượng lúa và gần 90% sản lượng xuất khẩu gạo trên cả nước. Những cánh đồng lúa Tây Nam Bộ trải dài qua 13 tỉnh, thành gồm: Cần Thơ, AnGiang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Người Tây Nam Bộ trồng lúa chủ yếu theo hình thức gieo sạ với hai vụ chính là vụ Chiêm (vụ Đông Xuân) và vụ Mùa (vụ Thu Đông). Vụ Mùa thường bắt đầu từ tháng 5 – 6 và thu hoạch vào cuối mùa mưa, khoảng tháng 11. Vụ Chiêm sẽ bắt đầu khi vụ Mùa vừa kết thúc, khoảng cuối tháng 11 – đầu tháng 12 và thu hoạch vào đầu tháng 4. Ngoài ra còn có thêm vụ 3 (vụ Hè Thu) bắt đầu gieo sạ từ đầu tháng 4 và thu hoạch vào cuối tháng 8 với diện tích lúa gieo trồng ít nhất trong năm. Tuy nhiên, những năm gần đây, người dân đã chuyển từ trồng lúa vụ 3 sang nuôi cá trong mùa nước nổi để gia tăng thu nhập và để những cánh đồng được nghỉ ngơi, thanh lọc và tái tạo phù sa. Sau 2-3 tháng nuôi và đánh bắt cá, khi nước rút, người dân sẽ lại bước vào vụ Chiêm, cũng là vụchính cho sản lượng và chất lượng lúa tốt nhất trong năm.

Người dân miền Tây Nam Bộ rất có kinh nghiệm trong việc xác định thời điểm thu hoạch để tối đa hóa được số lượng và chất lượng thóc. Nếu thu hoạch quá sớm sẽ bị dính nhiều gạo tấm, thiếu hụt gạo nguyên. Nếu thu hoạch quá muộn, thóc vàng nằm lâu trên đồng dễ bị côn trùng, chim chuột cắn phá, cây lúa dễ bị đổ nghiêng ngả và giảm năng suất. Thường cả cánh đồng lúa sẽ không thể chín đều nhau, những hạt lúa ở nhánh gié cấp 1 sẽ chín trước còn lúa ở nhánh gié cấp 2, cấp 3 sẽ chín sau. Vì vậy, bà con phải lựa lúc mà lúa ở cả cánh đồng đạt độ chín hài hòa nhất, và họ sẽ gặt vào thời điểm một tuần trước khi cả cánh đồng lúa chín hoàn toàn. Như vậy sẽ có ít nhất 85% hạt lúa tốt, đạt tiêu chuẩn.

Xưa kia, tới mùa lúa chín, người nông dân lại mang hái ra đồng gặt lúa bằng tay. Vì gặt thủ công nên họ phải đi từ tờ mờ sớm để khi nắng to nắng gắt thì việc đồng áng cũng đã xong. Ở khâu thu hoạch lúa quy mô nhỏ, người Tây Nam Bộ vẫn dùng liềm để cắt lúa trên những thửa ruộng bậc thang, ruộng có diện tích bé hoặc cắt liềm khi lúa bị ngã đổ. Tuy nhiên nhiều nơi cũng đã chuyển sang dùng máy cắt lúa cầm tay chạy bằng xăng, tiện lợi và năng suất. Ở khâu lấy hạt thủ công, người dân sẽ cầm bó lúa đập vào thang tre cho hạt lúa rơi vào bồ. Chiếc bồ cao lớn và có lưới bao quanh để tránh cho các hạt lúa văng ra ngoài. Sau công đoạn này, người nông dân còn phải đem lúa ra phơidưới nắng cho hạt lúa khô, khỏi bị mốc. Họ cào lúa phơi trên sân và rải rơm phơi ngoài ngõ. Sân nhà ai cũng vàng ươm màu lúa đượm vàng, con đường và bờ kênh nào cũng êm ả những tấm thảm rạ rơm. Nhưng ngày nay không còn nhiều cảnh người nông dân lui cui đốt rơm như xưa cho những cột khói cuộn lên xám trời và lửa liếm đen xì gốc mạ, thay vào đó là chiếc máy cuộn rơm cần mẫn chạy nhàn hạ. Rơm sau khi được cuộn lại thành từng cuộn dài sẽ được chất lên thuyền ghe để đến những nơi khai thác chúng hữu ích, dùng làm phân hữu cơ hoặc nuôi nấm rơm rất chóng lớn.

Giờ đây, trên các cánh đồng, thảng hoặc mới thấy bóng những chú trâu kéo cày, những bóng người gập lưng cắt lúa. Thay vào đó là những bác thợ, cô thợ điều khiển máy cày, máy gặt, máy tuốt lúa làm việc không biết mệt. Người dân áp dụng cơ giới hóa ở tất cả các quy trình sản xuất lúa, từ khâu làm đất, bơm tưới, thu hoạch, chế biến đến bảo quản sau thu hoạch. Trên những cánh đồng lớn, người dân dùng máy gặt, máy đập liên hoàn để tăng năng tsuất, tiết kiệm nhân công và rút ngắn thời gian thu hoạch. Máy đập chạy đến đâu, những cọng rơm quấn lấy nhau thành cuộn tuôn ra ngoài, nhường chỗ cho những hạt lúa vàng ươm tụ lại.Các bao lúa được tập trung tại các điểm thuận tiện cho ghe thương lái vào thu mua tại chỗ. Rồi ta sẽ thấy nườm nượp những xuồng ghe chở lúa bám đuôi nhau chạy trên những dòng sông lấp lánh ánh bạc, mang theo bao gửi gắm, khát khao về một cuộc sống đủ đầy và sung túc.

Cánh đồng miền Tây Nam Bộ mùa nào cũng đẹp. Khi lúa còn non tơ, nhìn từ trên cao xuống, cả không gian êm ả một sắc xanh mát lành. Khi lúa vào độ chín đằm, cánh đồng lại như những tấm thảm vàng nâu khổng lồ trải dài ngút tầm mắt. Gió thoảng dịu đem theo mùi phù sa, mùi lúa chín, mùi rơm rạ, mùi nhọc nhằn và có cả mùi của niềm vui. Niềm vui được mùa trúng giá như con nước ùa về tưới đẫm từng thửa ruộng đã và đang nuôi sống bao phận người. Chưa xong vụ này, người dân đã lại bàn tới chuyện chọn giống, chọn ngày gieo sạ cho vụ sau. Tiếng cười chân chất, sảng khoái của họ cứ lan dài trên cánh đồng bao la đang nằm phơi mình ngắm những bóng cò bay rập rờn trongmột ngày đầy nắng.

Bài của Winlinh đăng trên Heritage số tháng 9/2024.

Published in: on 30/09/2024 at 3:18 Chiều  Comments (2)  

Say men rượu ngô Bắc Hà

Bắc Hà là một huyện nổi tiếng của vùng cao Tây Bắc thuộc tỉnh Lào Cai, được du khách yêu thích không chỉ bởi cảnh sắc nên thơ, phong tục tập quán độc đáo mà còn vì nền ẩm thực đa dạng và phong phú. Nơi đây có món rượu ngô nức tiếng thơm ngon mà ai đã uống rồi thì khó lòng quên hương vị đặc trưng của nó. Rượu được đồng bào dân tộc H’Mông và Dao ở Bản Phố nấu theo phương thức thủ công truyền thống, nên có tên gọi là rượu ngô Bắc Hà hay rượu ngô Bản Phố.

Để nấu được món rượu ngô nức tiếng Bắc Hà, người dân đã rất kỳ công trong việc lựa chọn nguyên liệu. Ngô để nấu rượu phải là loại ngô vàng lâu đời được trồng trên các vách núi cao của xã Lũng Phìn. Qua 6-7 tháng trời, trải đủ gió sương và mưa nắng, ngô trở nên chín già óng vàng và chắc mẩy, đó là lúc bà con bắt đầu thu hoạch. Những bắp ngô được đem phơi nắng cho săn lại rồi chất lên gác bếp đợi nấu rượu dần. Song điểm đặc biệt nhất của rượu ngô Bắc Hà là sử dựng loại men có tên Hồng mi, xuất thân từ hạt cây Pà, thuộc họ cỏ, hạt màu đen nhỏ li ti như hạt kê, được trồng xen lẫn trên nương ngô, nương lúa. Tháng 9 – 10 là mùa thu hoạch Hồng mi, người dân sẽ cắt những bông Hồng mi đem về phơi khôđể làm men rượu. Riêng nước làm rượu, họ phải cất công lấy nước từ vách đá, khe núi hay nước suối chảy ra từ các hang (như hang Dế) để tạo nên hương vị tinh khiết, thơm ngon khác biệt cho rượu Bản Phố.

Quy trình nấu rượu của người dân Bắc Hà còn cẩn trọng và công phu hơn nữa. Trước tiên là khâu chọn ngô và bung (luộc) ngô. Ngô vàng được rửa sạch và tách hạt, sau đó đổ vào chảo lớn luộc từ20 – 24 giờ. Lửa bung ngô phải là lửa than, cháyliu riu vừa đủ để ngô sôi lăn tăn trong chảo,thường xuyên đảo đều ngô và tiếp nước, khi các hạt ngô bung hết thì vớt ra phơi trên nong hoặc mẹt, đợi nguội để trộn với men. Tiếp đến là khâu làm men và ủ men. Hạt Hồng mi cho vào cối đá nghiên nát, lọc lấy bột, nhào với nước và nặn thành bánh. Các bánh men sẽ được đặt trên rơm phơi chỗ thoáng gió và ít nắng, lúc nào men khô lại và có màu trắng là đạt yêu cầu. Khi ngô phơi đã nguội, người dân bóp men thành bột và rải lên ngô rồi trộn đều với tỷ lệ ba quả men cho mười kilogam ngô. Ngô trộn men xong sẽ được cho vào thùng gỗ để nơi thoáng mát chừng 5-7 ngày là ngấu.

Sau khi men đã ngấu, người ta đổ ngô vào chõ và bịt kít để bắt đầu công đoạn chưng cất cách thủy. Chõ dùng để chưng cất được làm bằng gỗ thông hay gỗ pơ mu mới cho ra thứ rượu thơm ngon đặc trưng. Họ dùng chảo gang to đổ đầy nước, gác một tấm phên tre lên trên rồi đặt chõ gỗ lên tấm phên đó, bên trên chõ đã bịt kín sẽ đặt một chảo nước lạnh. Ở công đoạn đun, để củi nhỏ lửa và cháy đều, thường xuyên tiếp nước để rượu không bị khê đắng. Sau 30 phút, nước cốt tinh túy bắt đầu tuôn ra qua ống tre thông với chõ gỗ rồi rót thẳng vào các bình đất nung đã để sẵn. Các bình này được bảo quản trong bếp sẽ giúp rượu giữ được hương vị nguyên vẹn như ban đầu.

Bên cạnh nguyên liệu đặc biệt thì kinh nghiệm và sự chú tâm của người nấu rượu là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng rượu. Để có được thứ rượu không bị chua gắt, có màu trong như nước suối, có vị thơm nồng và ngọt dịu, uống không bị nặng đầu… người dân nơi đây đã phải qua bao năm tháng làm lụng, đúc rút mới tích lũy được những kinh nghiệm quý giá đó.

Rượu ngô là thức uống không thể thiếu trong các dịp hội hè, cúng giỗ, lễ tết hay đãi khách của bà con Bắc Hà. Và rượu sẽ ngon hơn cả khi được uống ở chính nơi đã làm ra nó, giữa núi rừng hoang sơ, bên những người dân hồn hậu, cùng các món ăn đặc sản của vùng cao Tây Bắc như thịt treo gác bếp, cá bống vùi tro, thắng cố ngựa, lợn cắp nách, nhộng ong rừng… Đối với đồng bào nơi đây, rượu ngô không đơn thuần là thức uống, mà chính là biểu tượng, là hồn cốt của người dân Bắc Hà, trên hết đó là tinh hoa của đất trời và con người giao thoa, hòa quyện.

Bài: Winlinh – Ảnh: Đào Cảnh

Screenshot
Screenshot
Screenshot
Published in: on 17/07/2024 at 6:37 Sáng  Comments (4)  

Sắc vàng Tam Cốc

Tràng An là quần thể thiên nhiên – văn hóa thế giới, nằm trên địa phận 05 huyện, thị xã, thành phố của tỉnhNinh Bình, cách thủ đô Hà Nội 100km về phía Đông Nam. Tràng An có diện tích tự nhiên rộng hơn 12 ha, trong đó vùng lõi di sản chiếm hơn 6 ha, bao gồm 3 khu bảo tồn là: Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, khu danh thắng Tràng An – Tam Cốc – Bích Động và khu rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư. Đến với Tràng An, du khách sẽ được tham quan các địa danhnổi bật như Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, chùa Bái Đính, thung Nắng, thung Nham, động Thiên Hà, hang Múa, hang Cả, hành cung Vũ Lâm, đền Cao Sơn… Những địa danh này đã góp phần tạo nên quần thể văn hóa, lịch sử và thiên nhiên Tràng An vô cùng đặc sắc, được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc giađặc biệt, đồng thời được UNESCO công nhận là di sản thế giới kép đầu tiê và duy nhất tại khu vực Đông Nam Á (2014).

Quần thể danh thắng Tràng An sở hữu hệ thống núi đá vôi địa hình dạng karst cùng hệ sinh thái rừng, hang động và đầm lầy xen kẽ nhau. Quá trình kiến tạo quahàng trăm triệu năm đã hình thành nên 31 hồ đầm và 48 hang động với nhiều loài động, thực vật dưới nước cùng hàng nghìn loại rong, rêu đa dạng. Trong quần thể danh thắng Tràng An, Tam Cốc – Bích Động là điểmđến ấn tượng, được du khách trong và ngoài nước vô cùng yêu thích. Tam Cốc – Bích Động có diện tích tự nhiên hơn 350 ha, nằm trên địa phận xã Ninh Hải (Hoa Lư). “Tam Cốc” có nghĩa là ba hang, gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba, được kết nối bởi dòng sông Ngô Đồng chảy xuyên qua núi. Còn Bích Động nằm cách bến Tam Cốc 02 km, gồm một động khô nằm trên lưng chừng núi (chùa Bích Động) và một hang động nướcchảy trong lòng núi (Xuyên Thủy động). Tam Cốc – Bích Động ở Tràng An không chỉ có giá trị về mặt địa chất mà còn là vùng đất cổ với những câu chuyện lịch sử đầy ý nghĩa. Theo sử sách, từ thế kỷ XIII, các vị vua nhà Trần đã lựa địa thế hiểm trở ở nơi đây để rèn binh luyện tướng, dựng hành cung Vũ Lâm và giành chiến thắng trong trận kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai. Tương truyền, đây cũng là nơi đầu tiên Phật Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu hành trước khi lên Yên Tử lập ra thiền phái Trúc Lâm. Vì vậy, du khách đến nơi này không chỉ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp siêu thực của sơn thủy hữu tình mà còn cảm nhận được sự thiêng liêng trong từng di tích lịch sử đã trải qua bao nắng gió thời gian.

Tam Cốc – Bích Động mùa nào cũng đẹp, nhưng ấn tượng và nên thơ nhất chính là thời khắc vào hè, khi những cánh đồng lúa xanh dần ngả sang sắc vàng óng ả. Vào cuối tháng 5 đến đầu tháng 6, những cánh đồng lúa ở Tam Cốc sau một thời gian ủ dinh dưỡng miệt mài đã trổ bông trĩu nặng và dệt nên những tấm thảm vàng trải dài theo con sông quanh co uốn lượn. Nét đặc trưng và khác biệt của cánh đồng lúa Tam Cốc so với các nơi khác là lúa mọc lên giữa những rặng núi đá vôi cổ bên dòng Ngô Đồng trôi êm như dải lụa. Du khách như lạc vào cõi tiên khi được thả mình thư thái trên chiếc thuyền gỗ, vừa nghe tiếng mái chèo khua nước khoan thai, vừa ngắm bóng núi cao lừng lững in xuống mặt nước tĩnh tại. Từng vạt lúa thơm tho tỏa hương trong gió, cỏ cây lúp xúp hai bên bờ và phủ xanh rì trênnhững ngọn núi oai nghi. Thuyền từ từ rẽ nước xuyên qua các hang động để du khách được ngắm nhìn những hàng thạch nhũ kỳ diệu đổ xuống thành bao hình thù đẹp đẽ. Nếu muốn bao quát trọn vẹn sắc vàng Tam Cốc, thì hang Cả hoặc hang Múa là địa điểm lý tưởngđể bạn có thể phóng tầm mắt ra ngắm khung cảnh bốn bề. Nhìn từ trên cao xuống, vạn vật giao hòa, cảnh sắctươi đẹp càng khiến lòng người rung động. Phía dưới,những đoàn thuyền đang lướt thành hàng trên sônghiền hòa chảy. Nơi cánh đồng, những người nông dânđang tất bật gặt lúa và chất lúa lên thuyền. Tiếng cười nói rộn rã cả khúc sông và dội lại vang vang từ hướng núi. Ta nghe được niềm vui trong từng đụn lúa chất cao trên những chiếc thuyền chở cả mùa vàng trên sông. Nếu đến đây vào thời điểm lễ hội, du khách còn được dự Tuần lễ du lịch Ninh Bình với chủ đề “Sắc vàng Tam Cốc – Tràng An” được tổ chức thường niên vào mùa lúa chín.

Ngoài ngắm sắc vàng của lúa, sắc hồng của sen vào mùa hè, du khách còn được ngắm sắc đỏ của hoa gạo vào dịp cuối xuân. Khi từng chùm hoa gạo thắp lửa đỏ rực trên bầu trời cũng là lúc lễ hội Tràng An diễn ra với hàng loạt các hoạt động văn hóa – du lịch độc đáo. Lễ hội nhằm thể hiện lòng tôn kính của người dân đối với các bậc tiền nhân đã có công khai phá, xây dựng và bảo vệ vùng đất này. Đó là các thần núi trấn trạch Hoa Lư tứ trấn, các vị vua đầu nhà Trần lập ra hành cung Vũ Lâm và các tướng lĩnh triều Đinh đã đóng quân ở Tràng An. Phần lễ diễn ra với nhiều nghi thức trang trọng, nổi bật là lễ rước nước, rước kiệu và rồng trên sông. Phần hội cũng rất đặc sắc với các tiết mục hát chèo, hát xẩm, múa cồng chiêng… trên thuyền và tổ chức các trò chơi dân gian cho người dân và du khách được thỏa sức vui chơi.

Tam Cốc từng được chuyên trang du lịch Business Insider bình chọn là một trong năm cánh đồng lúa đẹp nhất Việt Nam. Ninh Bình là địa phương duy nhất của Việt Nam được bình chọn top 10 điểm đến thân thiện nhất thế giới trong giải thưởng thường niên năm 2023 do Booking.com tổ chức. Ninh Bình cũng được Tạp chí Forbes (Mỹ) bình chọn là một trong 23 địa điểm du lịch tuyệt vời nhất năm 2023. Trong khi đó, chuyên trang The Travel (Canada) đề xuất Ninh Bình là 1 trong 10 điểm nghỉ dưỡng dành cho gia đình tuyệt vời nhất năm 2023.

Published in: on 23/04/2024 at 1:13 Chiều  Gửi bình luận  

Ngắm sông mây trên đỉnh Pú Đao

Pú Đao là 1 trong 11 xã vùng cao thuộc huyện Nậm Nhùn nằm ở biên giới phía tây của tỉnh Lai Châu, cách thị trấn Nậm Nhùn 40km, cách thành phố Lai Châu 130km và cách Hà Nội hơn 560km. Đỉnh Pú Đao cùng với nhà máy Thủy điện Lai Châu và đền thờ vua Lê Lợi là 3 địa điểm quan trọng mà ai ghé Nậm Nhùn đều không nên bỏ qua.

Pú Đao trong nắng sớm

Muốn đến được Pú Đao, phải đi hết chừng 24km qua cầu Lai Hà, cây cầu bắc ngang một phụ lưu của con sông Đà,. Pú Đao theo tiếng H’Mông nghĩa là “điểm cao nhất” bởi khi đứng trên đỉnh núi này, bạn thấy như sắp được chạm vào trời xanh và hòa trong dòng sông mây kì ảo.

Với những người ưa mạo hiểm thì không gian thiên nhiên hoang sơ của Pú Đao chính là điểm đến lý tưởng. Hành trình trekking đỉnh Pú Đao sẽ bắt đầu từ bản Nậm Đoong với quãng đường dài chừng 3 – 5km, đôi chỗ khá khó khăn khi phải tự định vị và dò dẫm tìm lối đi cũng như lối về. Vào mùa cây nghệ đen nở hoa, bạn còn được ngắm bạt ngàn hoa nghệ trắng tinh khoe mình trong nắng gió. Trên những sườn đồi lún phún cỏ xanh là những chú trâu, bò hay ngựa đang thong dong gặm cỏ giữa tiếng chim chiu chít gọi bầy. Cung đường có nhiều đoạn dốc với núi cao vực sâu đôi lúc làm bạn chùn chân mỏi gối, nhưng cuối cùng đỉnh Pú Đao cũng hiện ra. Không khí trên đỉnh núi cao trong lành và thanh sạch khiến bao mệt nhọc tan biến. Những tia nắng lấp lánh sáng xiên thẳng tắp xuống dòng sông đang chảy miên man phía dưới. Từng cụm mây xốp bay chơi vơi, bảng lảng trong yên tĩnh núi đồi. Cây cỏ xum xuê, hoa lá tỏa sắc thắm. Lối mòn lên đỉnh nhìn từ trên cao xuống như một sợi chỉ mảnh vắt ngang cánh rừng già. Những bản làng lúp xúp ẩn hiện trong chập chờn sương mây.

Sương mây ôm ấp dòng sông Đà

Nhìn sang phía đông, thấy dòng sông Đà miệt mài từ Tây Bắc chảy đến, tới ngã ba sông, nó càng trở nên sung mãn hơn khi được nhận thêm nguồn nước từ chi lưu của sông Nậm Na chảy vào. Dòng sông Đà khi chảy qua hai dãy núi đã tạo thành điểm cắt hình chữ V và trong năm sẽ có vài ngày mặt trời mọc lên chính giữa chữ V ấy, ai may mắn lắm mới có cơ hội chứng kiến. Người dân ở Lai Hà, Hang Tôm, Đồi Cao, Mường Lay, Lê Lợi… coi con sông như người bạn thân thiết bởi nó gắn bó với họ từ thủa nằm nôi và nuôi dưỡng họ lớn bằng dòng nước mát dồi dào. Trên dòng sông, những con thuyền rẽ sóng lướt đi trong ban mai lấp lánh rồi lại nằm bình lặng soi bóng dưới ánh chiều chạng vạng. Nhìn sang phía tây, dòng Nậm Na chảy êm đềm quanh co ôm ấp những rẫy nương trù phú của xã Chăn Nưa – huyện Sìn Hồ. Gần đó là đỉnh Pú Huổi Chỏ và di tích bia đá Lê Lợi nằm bình yên qua bao mùa mưa nắng. Điểm thú vị là khi kết thúc chặng hành trình, du khách sẽ đi theo hướng bắc để xuyên rừng sang phía xã Nậm Hàng (giáp 2 xã Lê Lợi và Pú Đao) chứ không quay về điểm xuất phát ban đầu.

Đến với Pú Đao, bạn không chỉ được ngắm cảnh sắc thiên nhiên mà còn được trải nghiệm đời sống của bà con đồng bào. Xã Pú Đao có tới 98% dân tộc H’Mông sinh sống với các bản Nậm Đoong, Nậm Đắc, Hồng Ngài và Hồng Tý. Nơi đây, người dân thuần hậu, chất phác và chăm chỉ làm lụng. Đời sống của họ chủ yếu dựa vào ruộng nương và sông núi. Du khách có thể trải nghiệm bữa cơm trải lá rừng thơm ngon và trò chuyện với người dân bản để hiểu rõ hơn phong tục tập quán của họ. Giữa núi rừng bao la, còn gì thi vị hơn khi được nghe tiếng khèn H’Mông du dương bay bổng, xem các điệu múa dập dìu theo tiếng hát véo von. Pú Đao cũng là một trong những xã điển hình của huyện Nậm Nhùn phát huy tốt việc trồng và bảo vệ rừng. Mỗi mùa qua, rừng núi lại có vẻ đẹp riêng với những sắc màu linh hoạt biến chuyển theo sự đổi thay của mưa nắng, đất trời. Mùa lúa chín, những nương lúa trải thảm vàng nổi bật trên nên trời xanh. Mùa xuân về, hoa rừng đua nhau nở rộ, không gian ngập tràn sức sống với các sinh hoạt lễ hội tưng bừng.

Pú Đao vào mùa lúa chín

Với vẻ đẹp độc đáo và hoang sơ, năm 2006, Pú Đao đã được hãng du lịch Gecko Travel (vương quốc Anh) bầu chọn là 1 trong 5 điểm đến hấp dẫn nhất của Đông Nam Á. Còn hiện nay, Pú Đao đang là điểm đến cuốn hút đối với du khách trong và ngoài nước ưa thích vẻ đẹp tự nhiên nơi núi rừng kì vĩ.

Published in: on 25/02/2024 at 11:51 Sáng  Gửi bình luận  

Tết ba miền

Mùa xuân lại về trên khắp ba miền của dải đất hình chữ S. Không gian như tươi mới, thanh sạch hơn trong tiết xuân xôn xao đất trời và hân hoan lòng người. Thế là xuân đã đến trong mỗi người bằng những sắc thái riêng, an ủi, vỗ về những tâm hồn bằng sự dịu dàng của nó. 

Tết Bắc

Tết của bà con dân tộc ở các tỉnh phía Bắc rất độc đáo và phong phú. Nếu người Mông ăn tết với thịt ướp diêm tiêu, thịt treo gác bếp cùng bánh ngô, bánh bỏng, bánh chưng, bánh khảo, chè lam, khẩu si thúc théc, pẻng, dỏ ngũ vị… thì người Dao đỏ có tục cúng ông Công, ông Táo vào lễ tất niên với bánh chưng, bánh gù, bánh dày, bánh nếp bên cạnh thịt gà, thịt lợn. Người Mường lại thường làm mâm cúng có bánh chưng, rượu, cơm nếp, thịt luộc, chả rang, dồi, quếch, một ít tiền, một bát nước lã, trầu cau, mắm muối để dâng lên thần linh. Trong khi đó, dân tộc Thu Lao tổ chức lễ cúng rừng bốn vị thần thần đất, thần sức khỏe của các loại sinh vật, thần quản lý các loài thực vật và thần trông coi việc nắng mưa gió bão, cầu khẩn các thần phù hộ cho sản xuất thuận lợi, bà con có sức khỏe để ăn nên làm ra. Người Nhắng có tục lệ đi lấy nước đầu năm trong giờ giao thừa về pha trà cúng tổ tiên và hái cành lộc cắm bàn thờ. Người Lô Lô có tục đón giao thừa bằng cách đánh thức tất cả gia súc vật nuôi trong nhà cùng dậy và dán giấy màu vàng, bạc cho đồ dùng trong gia đình và cây cối trong vườn tượng trưng cho sự nghỉ ngơi trong ba ngày Tết. Riêng người Thái thì đón tết suốt cả mùa xuân với tết cơm mới, tết uống rượu, tết ông Táo và lớn nhất là tết Nguyên Ðán. 

Ngày tết ở đồng bằng các tỉnh miền Bắc, nhất là Hà Nội không thể thiếu hình ảnh cây hoa đào. Có thể có hay không những thủy tiên, lay ơn, violet, cúc vàng, thược dược…, nhưng nếu thiếu hoa đào, có cảm giác mùa xuân miền Bắc sẽ mất đi sự độc đáo của riêng mình. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm. Hoa đào có sức hút rất kỳ lạ. Tháng 12 âm mới chớm, khi lác đác trên phố có xe trở đào rong, nhiều nhà đã háo hức rước hoa về bày, sát tết thay cành mới, ra giêng lại thích mua từng chùm đào nhỏ về thắp hương và cắm chơi trên bàn, cho tết kéo dài ra cả tháng. Bên cạnh đó, mâm ngũ quả cũng là thứ không thể thiếu từ những ngày cuối năm cho đến ba ngày tết. Mâm ngũ quả miền Bắc thường có chuối xanh, bưởi, hồng, quýt, phật thủ, ớt đỏ, táo xanh… bày xen kẽ đẹp mắt, làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học, tín ngưỡng, thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới. Mâm cỗ tết của người miền Bắc cũng rất được coi trọng và được các bà, các mẹ chăm chút từ ngày trước sang ngày sau. Mâm cỗ thường có giò lụa, giò xào, nộm, thịt đông, gà luộc, bát miến nấu lòng gà hay canh măng nấu bóng, chân giò và tất nhiên không thể thiếu món truyền thống là dưa hành và bánh chưng xanh. Mâm cỗ tết thể hiện khát vọng một năm mới đủ đầy, thịnh vượng và phát đạt. Tết miền Bắc với hơi lạnh quấn lấy, đất trời lất phất mưa bay, tay trong tay, người và người cảm thấy hơi lạnh giá tan đi rất nhiều.

Tết Trung

Ở miền Trung, vào sáng 30 Tết, những người đàn ông trong gia đình thường đi mộ thắp hương ông bà tổ tiên, mời ông bà cùng về ăn Tết với con cháu. Các bà nội trợ thì đi sắm sửa những vật dụng cuối năm, nấu nướng chuẩn bị mâm cúng Tất niên. Những ai nợ nần gì cũng lo trả hết hoặc phải khất nợ cho rõ ràng, nếu không chủ nợ đòi lúc đầu năm thì xem như mắc nợ cả năm. Chiều 30 Tết, nhà nào cũng tiến hành cúng Tất niên để tiễn năm cũ đón năm mới. Lễ này thường có một mâm ở bàn thờ gia tiên, một mâm ở giữa nhà và mâm thị thực đặt ở trước cổng. Lễ cúng có đầy đủ các món mặn, thịt heo, thịt gà, các món canh, xào…. 30 tháng Chạp được xem là ngày đoàn tụ gia đình, con cái dù ở xa đến mấy cũng về thăm ông bà, cha mẹ. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng bên nồi bánh chưng, bánh tét. Các gia đình người miền Trung đều cúng giao thừa vào đúng 12h đêm để cầu mong một năm mới tốt lành. Mâm cúng đơn giản, chỉ gồm một ít bánh trái, mứt và xôi chè. Sáng mồng mộtngười miền Trung cũng có tục “xông đất” để lấy may rồiđi thăm mộ, lên chùa khấn vái, cầu nguyện ông bà hoặc các vị thần linh phù hộ cho mọi thành viên trong gia tộc. Đến ngày mồng 2 và mồng 3 Tết thì đi thăm láng giềng, bà con xa hoặc bạn bè thân cận. Tết của người Huế chỉ kết thúc khi đã làm xong mâm cúng đưa. Nhiều nhà thường chọn cúng đưa vào ngày mồng 3, mồng 4 nhưng cũng có nhà đến mồng 7 mới tiến hành lễ cúng này.

Ngày xuân ở miền Trung, dù mâm cao cỗ đầy vẫn không thể thiếu những món ăn dân dã như bánh tét, dưa món, nem chua, tré, thịt giầm, thịt chua và tai heo.  Ngoài ra, họ cũng rất chuộng món giò heo ăn kèm với cơm nóng và chút măng muối. Ở Huế, món ăn truyền thống Tết không thể thiếu bánh tét thơm đặc trưng hương nếp cái, bò bắp giầm nước mắm thái lát mỏng tang ăn kèm dưa góp chua ngọt hoặc chuối chát ngâm giấm gừng đem lại cho người ăn cảm giác đỡ ngấy khi đã thưởng thức nhiều món ăn béo ngậy. Về thức ngọt, người miền Trung thích nhất món mứt me và mè xửng… là hai món đặc trưng không thể thiếu của ngày xuân. Người miền Trung vốn giản dị, tết cũng vì thế mà giản dị, ít phô trương, nhiều khi chỉ một mâm cơm nho nhỏ là đã làm nên một mùa xuân đầy ắp tình người.

Tết Nam

Đồng bào dân tộc phía Nam có nhiều cái tết rất đáng nhớ. Người K’Ho ăn Tết mừng lúa mới sau Tết Nguyên đán của người Kinh độ một tháng. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia đình khác. Dân tộc Ba Na thì có lễ Bỏ Mả, Cầu hồn người chết, Xua đuổi tà ma, Cầu bình an, Nùng Chàm cầu mưa thuận gió hòa. Đối với đồng bào Hrê, vào những ngày cuối năm, người cao tuổi có uy tín trong buôn làng bàn bạc, lựa chọn ngày để chủ làng quyết định ngày ăn tết, sau đó mọi người, mọi nhà chuẩn bị nấu bánh tét và ủ rượu cần. Tết của người Chơ-Ro gồm lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng vì người dân quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.Người Xơđăng thì ăn hai tết chính là tết Giọt nước và tết Lửa. Riêng “Lễ cúng máng nước” cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông với sự có mặt của thầy cúng. Tết Cơm Mới của người Êđê diễn ra vào khoảng tháng 10 dương lịch khi lúa đã chín vàng. Họ mổ heo, giết gà và nấu cơm làm lễ vật cúng giữa nhà cùng với rượu cần buộc gốc cột. Đồng bào Cơ Tu thường tổ chức tết Prơ-giê-răm vào đầu vụ lúa mới. Ngoài việc ủ rượu, phụ nữ lo giã nếp, hái lá đốt để làm bánh sừng trâu, nấu nhiều cơm lam, món Za zá để ăn và đãi khách. Còn người Khmer lại hào hứng mong chờ và dành nhiều tâm sức chuẩn bị cho tết Chôn Chăm Mây, lễ Đônta, lễ Ok Om Bok… Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem là tết của đồng bào Chăm. Tết của đồng bào H’Ré kéo dài tới vài tháng với các buổi múa hát bất tận. Khi hát múa, đàn ông đeo ống chinh, đàn bà đeo ống bương cùng vỗ tay vào để tiếng bập bùng hòa cùng giọng hát và tán dương trò chơi nhảy kẹp của các đôi nam nữ

Tết miền Nam luôn gắn với hình ảnh hoa mai vàng tươi rực rỡ trong nắng ấm. Mai biểu tượng cho ngũ hành, sự trường thọ và đủ đầy nên được người miền Nam yêu chuộng. Bắt đầu từ hai mươi tháng chạp, khắp nơi mở những phiên chợ Tết cho đến giao thừa đêm ba mươi. Người ta đi chợ mua đủ thứ, nhưng không thể thiếu mâm ngũ quả với cặp dưa hấu màu xanh có dán miếng giấy hồng điều cắt thành hình bông hoa xinh xắn. Khác với người miền Bắc, người dân Nam Bộ có phần cầu kỳ hơn trong khâu chọn lựa những loại quả sẽ xuất hiện trong mâm ngũ quả cúng gia tiên. Mâm ngũ quả thường có mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài và thêm một số thứ hoa quả khác cho đẹp màu sắc. Đối với người miền Tây Nam Bộ, vào giữa tháng Chạp, họ đã quết bánh phồng, tráng bánh tráng để chuẩn bị ăn tết. Cùng với việc quết bánh phồng, người ta còn chuẩn bị gói bánh tét, bánh ít. Người dân thường hay gói và nấu bánh tét trong ngày 29 và 30 tết để kịp bánh chín, đón giao thừa. Ở miền Nam, món cúng và cũng là món ăn ngày Tết gồm thịt hầm, thịt kho tàu, khổ qua nhồi thịt heo và cuối cùng là nem và bì. Ngày tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như đá gà, đá cá lia thia, thi cây kiểng, đu tiên, đua ghe, đánh bài, đánh me và xóc đĩa. Người miền Nam chơi hết mình trong những ngày tết với những trò vui thâu đêm suốt sáng. Những cuộc vui như tính cách người miền Nam, luôn sôi nổi, nhiệt tình và rộn rã.

Published in: on 27/01/2024 at 6:21 Chiều  Gửi bình luận  

Múa rối nước – Hiện đại soi bóng tiền nhân

Có một trò diễn mà sàn diễn là mặt nước còn diễn viên lại xuất thân từ những miếng gỗ. Có một trò diễn mà con người chỉ thầm lặng đứng sau hậu trường trong khi những hình nhân vô tri lại tỏa sáng dưới ánh đèn sân khấu. Trò diễn đó chính là múa rối nước, một loại hình nghệ thuật biểu diễn mang đậm hơi thở của nền văn minh lúa nước đồng bằng Bắc bộ Việt Nam.

Hoạt cảnh Đua thuyền

Hiếm người biết chính xác rối nước ra đời từ bao giờ, bởi nó bắt đầu nảy mầm, len lỏi trong lòng các xóm làng chiêm trũng rồi lớn dần lên giữa những sinh hoạt nhỏ bé đời thường. Tương truyền, múa rối nước được hình thành từ thế kỷ 11 – 12. Theo thời gian, múa rối nước ngày càng trở nên phổ biến và hoàn thiện thông qua những đúc kết của nhiều thế hệ.

Âm nhạc cổ truyền phục vụ biểu diễn rối nước
Sân khấu rối nước tại nhà hát Múa rối Thăng Long

Múa rối nước vốn thường được biểu diễn trong các buổi hội làng hay các dịp lễ tết, khi bà con đã thu xếp xong việc đồng áng để cùng ra đình góp vui. Sau này, rối vào thành phố, rối vào nhà hát, diễn viên vẫn là rối gỗ, sân khấu vẫn là mặt nước, người điều khiển vẫn đứng sau bức mành, nhưng không khí và quy mô của nó đã khác hơn nhiều.

Hoạt cảnh Vinh quy bái tổ

Nghệ thuật múa rối là sự kết hợp độc đáo giữa nghệ thuật tạo hình và kỹ thuật biểu diễn. Để diễn được trò rối nước, người ta phải dựng lên nhà rối (còn gọi là thủy đình) trên mặt ao làng với lối kiến trúc mái chùa cong cùng mành tre, cờ phướn, võng lọng, cổng hàng mã… tạo nên một sân khấu sinh động. Thời nay, thủy đình được dựng ngay trong các nhà hát và trong các khu du lịch sinh thái… với sân khấu là hồ nhân tạo. Khán giả làng đứng ngồi xúm xít quanh ao xem rối còn khán giá phố ngồi ghế ngay hàng thẳng lối xem rối. Khản giả làng xem rối giữa hây hây gió trời còn khán giả phố lại xem rối giữa mát mẻ điều hòa. Tuy có sự khác nhau về không gian biểu diễn, nhưng các nghệ nhân và nghệ sỹ đều cố gắng đem lại cho khán giả những nét đặc trưng nghệ thuật rối nước Việt Nam.

Rối nước khác rối cạn (rối cạn gồm rối tay, rối que, rối dây) là người điều khiển sử dụng hệ thống sào kết hợp với dây để điều khiển con rối. Hệ thống sào, dây giúp người đứng sau bức mành (còn gọi là buồng trò) có thể điều khiển những con rối cử động theo ý muốn. Lối điều khiển đòi hỏi kỹ năng thuần thục, làm sao để các cử động của rối nhịp nhàng và phù hợp với lời thoại, âm nhạc, từ đó lột tả được thần thái nhân vật. Phần thân trên của rối nổi lên mặt nước còn phần chân chìm dưới nước được gắn đế để giữ thăng bằng và lắp bộ điều khiển. Những con rối được đẽo gọt từ gỗ sung (thứ gỗ nhẹ và nổi được trên nước), được tạo hình ngộ nghĩnh với màu sắc rực rỡ tươi vui và dân dã. Ngoài ra âm thanh và ánh sáng cũng là yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành công của một tiết mục rối nước. Rối nước cần tiếng đàn, tiếng hát, tiếng trống mõ, tiếng kèn sáo và cả những tiếng pháo phụ trợ để thật tròn vai. 

Những con rối làm từ gỗ
Các diễn viên cúi chào khán giả

Giữa nhịp sống tốc độ thời cách mạng Công nghiệp 4.0, nghệ thuật múa rối vẫn được duy trì và bảo tồn. Bên cạnh những sinh hoạt biểu diễn hội hè đã thành thông lệ ở nhiều làng xã, trên khắp cả nước có rất nhiều địa điểm tổ chức biểu diễn múa rối nước hấp dẫn khán giả, đặc biệt là các khán giả nhỏ tuổi và người nước ngoài. Lớp trẻ được tiếp cận gần gũi với nghệ thuật biểu diễn dân gian còn người nước ngoài được biết thêm một nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Tuy nhiên những người tâm huyết với nghệ thuật múa rối còn kỳ vọng hơn thế. Bởi duy trì được nhưng đã phát triển được hay chưa? Phát triển ở đây không chỉ là nhân rộng địa điểm biểu diễn, tăng số lượng suất diễn, thu hút được khán giả mua vé, mà cao hơn nữa phải là sự tìm tòi, sáng tạo để đào sâu và phát huy những giá trị vốn có của nghệ thuật múa rối nước mà các thế hệ đi trước đã gây dựng.

Những người yêu nghệ thuật rối nước, những nghệ nhân múa rối nước và tạo tác con rối vẫn luôn trăn trở để gìn giữ môn nghệ thuật truyền thống thấm đẫm tinh thần Việt.

Bài Winlinh – Ảnh: Amachau

Published in: on 08/11/2023 at 4:55 Sáng  Comments (2)  

Thấm hồn dân tộc

Tôi thuộc lứa 8X đời đầu với kí ức tuổi thơ gắn với nhiều trò chơi hay các món đồ chơi dân gian. Trong số đó, tôi rất thích tò he bởi nó có sắc màu đẹp đẽ, hình dạng dễ thương và đáng nói là chúng còn ăn được. Tôi thường mong năm mới đến để được đi chợ Tết và ngắm nhìn thoả thích, lựa chọn những con giống xinh xắn mà bà hay mẹ tặng cho.

Tò he dân tộc Kinh

Tò he ban đầu được tạo ra để làm vật phẩm cúng lễ. Sau này, nó trở thành món đồ chơi được trẻ em yêu thích. Những bông hoa, con chim, con trâu, con ngựa… được lũ trẻ say mê chơi rồi cuối buổi đem ra nhấm nháp ngon lành. Theo năm tháng, hình ảnh những con tò he ngày ấu thơ dần xa xôi vì trong trong cuộc sống hiện đại, thứ đồ chơi này ít hiện diện quá.

Bột màu để nặn tò he
Tò he các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái

Có những người nặn tò he để kiếm sống lúc nông nhàn. Họ lên phố, ra công viên, vào các lễ hội, hội chợ để nặn tò he tại chỗ và bày bán. Họ tạo ra những con giống bằng ý nghĩ vừa làm vui đời, vui người vừa lấy công làm lãi, nhặt nhạnh từng đồng. Nhưng cũng có những người coi nghề này là máu thịt, lẽ sống như nghệ nhân Nguyễn Văn Thành ở thôn Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Nghệ nhân Nguyễn Văn Thành hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Làng nghề truyền thống Tò he Xuân La. Bên cạnh việc kế thừa những kỹ thuật làm tò he của các thế hệ trước như cách làm bột, tạo màu từ nguyên liệu thiên nhiên, nghệ nhân này còn sáng tạo ra kỹ thuật hấp cách thủy làm cho sản phẩm bền màu hơn, lưu giữ được hàng năm chứ không dễ bị mốc, hỏng trong vài ngày như trước đây. Anh luôn đau đáu với nghề, nuôi mơ ước các sản phẩm tò he của Việt Nam được bạn bè thế giới biết đến và yêu thích. Anh mong muốn tò he không chỉ là món đồ chơi của trẻ nhỏ mà sẽ là sản phẩm mỹ nghệ mang hơi thở dân gian.

12 con giáp là chủ đề truyền thống của tò he

Duyên lành đã đến khi nhóm Vietnam Lens, gồm những người yêu nghệ thuật nhiếp ảnh và luôn trân trọng những giá trị văn hóa, đã tìm đến nghệ nhân Nguyễn Văn Thành với ý tưởng tạo nên bộ tò he về 54 dân tộc anh em. Nhóm Vietnam Lens có những thành viên từng đi tới nhiều vùng miền, gặp gỡ và sinh hoạt cùng các dân tộc thiểu số trên dải đất hình chữ S. Vì thế, họ hiểu rõ đặc trưng của mỗi tộc người với nét đẹp văn hóa bản địa. Họ muốn vẻ đẹp ấy được tỏa lan chứ không chỉ gói gọn trong một vùng đất xa xôi ít người biết đến. Hai bên đã dành thời gian trao đổi kỹ càng để làm nổi bật những chi tiết, tạo hình mà họ muốn thể hiện qua các tác phẩm tò he. Tôi đã không khỏi xúc động khi được ngắm 54 đôi tò he trong trang phục dân tộc với cái hồn sống động. Từng nét vuốt bột tâm huyết, chỉn chu đã khắc họa từ mũ, áo, khăn đội đầu đến nét mặt, dáng điệu… lột tả được vẻ độc đáo của mỗi tộc người. Các cặp trai gái người Bahnar, Ê đê, Jrai khoẻ khoắn trong trang phục thổ cẩm sặc sỡ, chơi nhạc cụ cồng, chiêng. Chàng trai người Tày mặc chiếc áo màu chàm đang thổi sáo bên người bạn gái chơi đàn tính. Cô gái Thái vấn tóc điệu đà với chiếc khăn piêu, áo cóm và váy đen duyên dáng… Nghệ nhân Nguyễn Văn Thành chia sẻ rằng thời gian để tạo mỗi đôi tò he lâu hơn rất nhiều so với những mẫu phổ biến, từ khâu pha bột để ra được đúng màu trang phục đến việc tạo hình dáng, cử chỉ, cách chơi nhạc cụ dân tộc…

Tạo hình mềm mại với màu sắc tinh tế, trang phục cuốn hút… của những cặp tò he chính là thành công của sự kết hợp giữa nhóm Vietnam Lens và nghệ nhân Nguyễn Văn Thành khi họ dùng truyền thống để bảo tồn truyền thống, lấy bản sắc nâng niu bản sắc. Cùng với các phương thức như số hóa, vẽ tranh, chụp ảnh… đây cũng là một hướng đi rộng mở cho những ai muốn lưu giữ và tiếp nối văn hóa dân tộc.

Published in: on 04/11/2023 at 12:02 Sáng  Comments (2)  

Hồn biển miền Trung

Đến biển miền Trung một ngày đầy nắng, ấn tượng trong tôi về nơi đây không chỉ là màu trắng của mây, màu xanh của biển, màu lấp lánh của những nụ cười… mà còn là màu khỏe khoắn của những chiếc thuyền thúng đang thênh thang cưỡi sóng hay nằm thảnh thơi phơi mình trên bãi cát thong dong.

Người dân tỉnh Quảng Nam làm thuyền thúng thủ công

Thuyền thúng là phương tiện đánh bắt thô sơ gắn liền với đời sống của ngư dân nhiều vùng miền biển Việt Nam, đặc biệt là miền Trung thuần hậu, từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, tới Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Bình Định, Nha Trang, Bình Thuận… đâu đâu cũng thấy sự hiện diện của những chiếc thuyền thúng mộc mạc. Ngư dân các vùng biển này sử dụng thuyền thúng để đánh bắt gần bờ như câu mực, lặn sò và cả kéo lưới. Song tùy địa phương mà thuyền thúng được sử dụng theo những mục đích khác nhau. Bình Thuận thường để câu tôm và mực, Lý Sơn thì bắt sò, còn Phú Yên thì đánh bắt cá. Ngoài ra, thuyền thúng ngày chăm chỉ ra khơi, mang theo ước mơ và khst vọng còn được theo các tàu thuyền lớn ra khơi xa phục vụ nhu cầu vận chuyển con người, hàng hóa hoặc cứu sinh trong các trường hợp khẩn cấp. Trong các tour du lịch sinh thái miền sông nước bên những rặng dừa soi bóng, hay lênh đênh giữa bao la biển rộng ngắm san hô, thuyền thúng chính là phương tiện hữu hiệu giúp du khách có thể thong thả để tận hưởng trọn vẹn vùng không gian tươi đẹp ấy. Chưa kể thuyền thúng còn góp mặt trong các lễ hội đua thuyền tại các hội làng địa phương, tạo nên tinh thần hứng khởi và gắn kết, làm giàu truyền thống của người dân miền biển ngày ngày chăm chỉ ra khơi, mang theo ước mơ và khát vọng về một cuộc sống sung túc, yên bình.

Những chiếc thuyền thúng làm bằng composite ở vùng biển vịnh Xuân Đài, tỉnh Phú Yên

Ưu điểm của chiếc thuyền thúng là gọn nhẹ nên dễ dàng di chuyển xuống nước hơn so với các con thuyền thân dài. Thuyền cũng hiếm khi bị lật úp bởi có khả năng cưỡi sóng thay vì cắt ngang mặt nước như các loại thuyền khác. Thuyền có hai kích cỡ, loại lớn có đường kính 2,2m, loại nhỏ có đường kính 1,8m. Đan thuyền thúng đòi hỏi người thợ phải có đôi bàn tay khéo léo, có sức làm việc bền bỉ dẻo dai với kỹ thuật và kinh nghiệm tốt. Quan trọng nữa, người thợ phải làm chúng với cả tâm huyết và sự cẩn trọng, bởi chỉ cần một sơ suất nhỏ, thuyền bị thấm nước hoặc bị đánh úp, sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.

Ngư dân sử dụng thuyền thúng để đánh bắt gần bờ

Để làm một chiếc thuyền thúng phải cần tới 5-7 cây tre loại đặc, không non quá cũng không già quá và chỉ dùng cật từ nửa thân tre trở xuống. Tre sau khi cạo sạch lớp áo xanh bên ngoài sẽ được chẻ thành những nan nhỏ theo kích thước bằng nhau đã định sẵn, sau đó vót bỏ ruột chỉ lấy cật và đem phơi chừng 4-5 ngày cho khô rồi mới bắt đầu đan. Nan vót cần đều tay để khi đan các dải tre đều đặn, kín khít, không bị dày mỏng lộ cộ. Ở khâu tạo hình thuyền, người thợ cần kiểm tra và định mẫu rồi mới cắt, gọt nan cho sát mép để đặt vành (còn gọi là lận vành). Vành được làm từ cật tre tốt sẽ giúp thuyền giữ thăng bằng tốt, dây cột vành phải là loại dây cước dai bền để chịu được nắng mưa và nước sông, nước biển. Kết thúc khâu đặt vành, thuyền sẽ được mang ra phơi nắng cho đến khi cứng cáp rồi đem đi quét phân bò. Phân đến khi cứng cáp rồi đem đi quét phân bò. Phân bò tươi sau khi đánh nhuyễn sẽ được người thợ trát vào các khe nan để lấp đầy các kẻ hở, tạo thành lớp bảo vệ chống thấm cho thuyền. Sau khi phơi khô, thuyền tiếp tục được quét lớp dầu rái hay nhựa đường hoặc dầu composite để thuyền thêm cứng cáp và duy trì tuổi thọ.   

Song cũng có nơi không tạo hình thuyền thúng trên cạn mà tạo hình dưới hố, gọi là làm thúng chai. Người thợ đào hố tương đương với kích cỡ chiếc thuyền, sau đó họ đặt mê đã đan xuống hố để tạo hình. Tạo hình đến đâu thì dùng cát xung quanh tấn xuống đến đó cho đến khi thuyền làm hoàn chỉnh. Cách làm này mất thời gian và công sức hơn nhưng lại cho ra những chiếc thuyền có kỹ thuật cao và độ bền lớn.

Du lịch trải nghiệm thuyền thúng có trong các tour tại tỉnh Quảng Nam

Tuy nhiên những năm gần đây, chiếc thuyền thúng đã có phiên bản mới hơn, đó là thuyền thúng composite. Loại thuyền này là được sản xuất bằng vật liệu composite cốt sợi thủy tinh nên bền và nhẹ, chịu nước tốt, không bị ăn mòn, không cần bảo dưỡng. Thuyền có đường kính đáy nhỏ hơn đường kính miệng thúng giúp giảm lắc, khó lật và giảm lực cản khi di chuyển, có thể chở nhiều người hơn thuyền thúng đan bằng tre. Khi bị va đập vỡ, các mảnh của thuyền thúng composite nổi trên nước và có thể dùng làm vật cứu hộ. Nhiều nơi thuyền thúng còn được lắp cánh buồm hoặc động cơ để tiết kiệm sức người và giúp thuyền đi xa hơn. Có cả những chiếc thuyền lắp kính cường lực dưới đáy phục vụ du khách ngắm san hô và các loài động, thực vật dưới đáy biển.

Có thể nói, chiếc thuyền thúng không chỉ là phương tiện mưu sinh, mà còn là vùng ký ức ẩn chứa vui buồn, chứng kiến bao thăng trầm đời người theo dặm dài năm tháng. Chúng còn là minh chứng cho khát vọng mãnh liệt và sức sống trường tồn của người dân biển miền Trung giữa nắng gió khắc nghiệt. Và cứ thế, những chiếc thuyền thúng sắc màu tươi vui cứ dập dềnh giữa biển khơi như từng đốm nắng xôn xao thắp lên bao hy vọng về cuộc sống ấm no và hạnh phúc.

Bài Winlinh – Ảnh Bá Ngọc.

Published in: on 10/09/2023 at 10:30 Sáng  Gửi bình luận  

Biểu tượng nghệ thuật của người Dao

Dãy núi Mẫu Sơn của tỉnh Lạng Sơn trải dài trên địa bàn xã Công Sơn và xã Mẫu Sơn thuộc huyện Cao Lộc cùng xã Mẫu Sơn thuộc huyện Lộc Bình. Trên dãy núi đồ sộ và cao nhất của tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực đông bắc Việt Nam này có nhiều tộc người đang sinh sống. Dân tộc Dao chiếm đa số ở đây và là tộc người có bản sắc văn hóa và phong tục tập quán độc đáo, trong đó phải kể đến trang phục truyền thống.

Ngày giáp Tết của bà con người Dao ở Mẫu Sơn

Trang phục của người Dao ở Mẫu Sơn được dệt thủ công bằng sợi gai, sợi bông. Khi cây gai, cây bông đến mùa thu hoạch, người Dao mang về xử lý thành sợi nuột nà rồi đem dệt thành vải. Khi đã hoàn thiện tấm vải, họ nhuộm chàm để lên màu theo ý muốn. Hàng năm vào quãng tháng 7, người dân lại đi thu hoạch lá chàm về ngâm nước. Lá ngâm mục nát thì lọc lấy nước cốt rồi cho vôi bột cùng nước tro bếp vào quấy đều, đến khi nước lắng vài hôm sẽ thành cao chàm. Thứ cao này được đun với lá ngải cứu, thêm ít tro và ít rượu là có thể làm thuốc nhuộm vải. Vải nhuộm phải đều tay, ngâm và phơi vài lần thì mới đủ độ. Vải khi đã nhuộm thành công sẽ được đem ra để khâu, thêu theo ý muốn.

Cô dâu Ngọc Thắm và chú rể Triệu Quang trong ngày hạnh phúc

Những người mẹ, người bà dân tộc Dao dạy cho con gái, cháu gái mình việc dệt vải, thêu thùa từ bé. Các thiếu nữ Dao đều biết tự may cho mình những bộ trang phục đẹp nhất để mặc trong ngày cưới hay mùa lễ hội. Để thêu xong một bộ quần áo như ý, họ phải cặm cụi làm trong suốt nhiều tháng, thậm chí cả năm trời. Những sợi chỉ màu qua đôi bàn tay khéo léo đã giúp bộ váy trở nên đẹp đẽ, sống động. Các bà, các cô thêu lên áo, váy những hoa văn, họa tiết hoặc hình thù đa dạng như cây cỏ, hoa lá, chim muông. Những đường chỉ thêu tỉ mỉ, cầu kỳ và cân xứng, thể hiện sự chăm chỉ cũng như tâm hồn và sức sống tươi mới của đồng bào Dao. Màu sắc chủ đạo trong các đường thêu là vàng, đỏ, xanh lá cây làm cho trang phục luôn nổi bật và thu hút. Các bà, các cô thường mặc áo dài bốn thân bổ tà trước ngực, bên trong là áo yếm. Áo váy của họ bên cạnh những mảng thêu dày lớp lớp hoa văn còn gắn các dây hạt cườm nhiều màu sắc điệu đà. Ở phần lưng eo, người ta thắt một dải vải màu trắng với các đường thêu tỉ mỉ, tinh tế.

Người đàn ông Dao trên đường đi làm nương

Trang phục của đàn ông người Dao đơn giản hơn nhiều. Áo thường là màu tối, đính lên đó các tua chỉ ngũ sắc để trang trí cho nổi bật hơn. Đầu họ đội khăn xếp hoặc buộc một chiếc khăn. Quần lưng lửng ống rộng buộc néo bằng sợi dây gai có đồng xu làm khuy để giữ cạp quần neo lại ở phần eo. Người Dao chuộng trang sức bạc nên trong các dịp quan trọng, họ thường gắn các ngôi sao bằng bạc lên váy áo, đeo dây xà tích bạc bên hông, đeo khuyên bạc lớn ở tai, đeo nhiều vòng bạc xủng xoảng ở tay.

Về mũ đội đầu, phụ nữ Dao nơi đây đội một chiếc mũ hình mái nhà màu đỏ kèm theo nhiều tua rua hạt cườm và khăn phủ. Họ còn có chiếc khăn Tầm phjả rất đặc biệt với hoa văn thêu tay rực rỡ cùng những chuỗi hạt kết thành nhiều vòng tròn. Giữa vòng tròn ấy là một ngôi sao to bằng bạc màu trắng. Người phụ nữ Dao chỉ được đội khăn này hai lần trong đời, một lần vào ngày cưới và một lần khi đã lớn tuổi trong nghi thức “kết tơ hồng” của đại lễ cấp sắc (từ bảy đèn trở lên) của đức phu quân.

Hạnh phúc đôi trẻ sau lễ cưới

Khi tết đến, người Dao tắm nước lá thuốc truyền thống để gột bỏ ưu phiền năm cũ rồi mặc bộ trang phục mới nhất, đẹp nhất để cùng chờ đón thời khắc giao thừa, cầu một năm mới sung túc, bình an… Trong lễ cấp sắc của người Dao ở Mẫu Sơn, người đàn ông Dao mặc những chiếc áo dài cài khuy trước, màu đỏ in hình công phượng sặc sỡ, đầu đội mũ vành tròn, có mỏm nhọn nhô về phía sau, phía trước dán tờ giấy in hình mặt người, vừa đi vòng quanh vừa hát và lắc chuông vang rộn.

Nghi lễ đám cưới của cô dâu Hoàng Nhung và chú rể Triệu Kim bên đội kèn Pí lè

Nếp mặc của người Dao ở Mẫu Sơn còn được thể hiện độc đáo hơn ở trang phục cưới. Vào ngày cưới, người người diện những bộ áo quần mới đẹp nhất để dự lễ. Cô dâu, chú rể được hai họ chăm chút ăn mặc hơn cả. Chú rể thường mặc áo dài màu trầm phủ ngoài quần dài, vai khoác và buộc tấm khăn to kèm thêm dải khăn dài thêu thổ cẩm màu vàng đỏ. Trên đầu đội mũ cùng khăn che mặt màu tối. Phía cô dâu thì áo váy cầu kỳ hơn nhiều. Ngoài của hồi môn, cô dâu phải có hai bộ trang phục để về nhà chồng. Một bộ lúc rời nhà bố mẹ đẻ và một bộ thay trước khi bước vào nhà trai. Trang phục của cô dâu gồm khăn che mặt, áo dài nhiều lớp cùng quần và 4 chiếc thắt lưng. Mỗi bộ trang phục của cô dâu người Dao trung bình có từ 3 đến 10 lớp. Gia đình nào sung túc thì trang phục cô dâu sẽ được may nhiều lớp hơn. Nhà trai háo hức đón dâu từ tinh mơ, còn cô dâu hồi hộp chuẩn bị sẵn sàng mọi tư trang, đồ đạc để lên đường. Trước khi vào cổng nhà trai, đoàn nhà gái sẽ dừng lại để các phù dâu phụ giúp thay đồ mới cho cô dâu. Lúc này, cô dâu đeo thêm vòng cổ, vòng tay, trang sức bằng bạc. Trên tay cô dâu chú rể đều ngay ngắn một tấm vải trắng thêu họa tiết đơn giản để làm lễ bái đường.

Trang phục đã trở thành biểu tượng nghệ thuật của người Dao. Ai đã đến và trải nghiệm không gian văn hóa của người Dao ở Mẫu Sơn hẳn sẽ rất nhớ những bộ váy, áo ấn tượng với từng nét thêu mềm mại, tinh tế mà rực rỡ.

Bài Winlinh – Ảnh Sơn Tùng

Published in: on 30/08/2023 at 12:52 Sáng  Gửi bình luận  

Về Thổ Hà ngắm bóng nắng lay dưới cội si già

Người ta thường nói, điều giản dị và thuần khiết nhất chính là điều đẹp đẽ và bền bỉ nhất. Ý nghĩ ấy đã khởi lên trong tôi khi tôi được đặt chân tới làng Thổ Hà vào một ngày nắng trong và gió nhẹ. Thổ Hà thuộc địa phận xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, là một ngôi làng cổ thuần Việt mang nhiều nét đặc trưng truyền thống của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Vẻ rêu phong, cổ kính của cảnh sắc và quần thể kiến trúc cũng như sự thuần hậu, mộc mạc của người dân Thổ Hà đã để lại trong lòng tôi ấn tượng khó phai.

Bến đò làng Thổ Hà

Với địa thế ba mặt được bao bọc bởi dòng sông Cầu và một mặt tựa mình vào đồi núi thấp, Thổ Hà được hưởng trọn sự nuôi dưỡng hiền hòa của thiên nhiên. Phương tiện đi lại chính của người dân nơi đây là thuyền đò (tập trung ở ba bến đò  là bến Chùa, bến Dưới và bến Trên) khiến Thổ Hà như một ốc đảo tách biệt với những xô bồ bên ngoài. Hình ảnh dòng sông Cầu thơ mộng với hàng tóc si ngả mình soi bóng nước hay những dáng đa cổ thụ nằm trầm lặng bên ngôi đền cổ được xem là biểu tượng cho sự bình yên mà người Thổ Hà đã gìn giữ suốt bao năm. Và họ cứ thế, giản dị vui buồn sống một đời thanh đạm, chuyên tâm làm nghề truyền thống bên con sông hiền hòa.

Biểu diễn Quan họ trong ngày hội làng

Bước quanh co theo lối đi đỏ nâu màu gạch xưa, ta có thể thư thả ngắm nhìn nắng chiếu trên những mái ngói rêu phong hay lá hoa la đà ngoài sân, trước ngõ. Lòng chợt lắng lại khi bước vào một gian chùa cổ, thấy như được gột rửa khỏi bụi bặm cuộc đời. Ngước nhìn những mái đình cong cong đượm màu mưa nắng, tâm trí trở nên nhẹ nhõm hơn. Ta được ngắm từng mảng gạch nung, tiểu sành, mảnh gốm trát trên cổng làng, miếu làng, giếng cổ hoặc những bức tường nhà gợi nhắc một thời vang bóng của làng gốm Thổ Hà xưa. Dừng chân tại đình Thổ Hà, chùa Đoan Minh và từ chỉ Thổ Hà (đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia), ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi nơi đây lưu giữ nhiều bia đá, đồ thờ, hoành phi, câu đối rất cổ và quý hiếm, xứng đáng là một trong những nơi tiêu biểu cho không gian văn hóa, tâm linh truyền thống của người Việt vùng châu thổ sông Hồng.

Diễn viên trong màn diễn Tuồng tại Hội làng Thổ Hà

Bước quanh co theo lối đi đỏ nâu màu gạch xưa, ta có thể thư thả ngắm nhìn nắng chiếu trên những mái ngói rêu phong hay lá hoa la đà ngoài sân, trước ngõ. Lòng chợt lắng lại khi bước vào một gian chùa cổ, thấy như được gột rửa khỏi bụi bặm cuộc đời. Ngước nhìn những mái đình cong cong đượm màu mưa nắng, tâm trí trở nên nhẹ nhõm hơn. Ta được ngắm từng mảng gạch nung, tiểu sành, mảnh gốm trát trên cổng làng, miếu làng, giếng cổ hoặc những bức tường nhà gợi nhắc một thời vang bóng của làng gốm Thổ Hà xưa. Dừng chân tại đình Thổ Hà, chùa Đoan Minh và từ chỉ Thổ Hà (đã được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia), ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi nơi đây lưu giữ nhiều bia đá, đồ thờ, hoành phi, câu đối rất cổ và quý hiếm, xứng đáng là một trong những nơi tiêu biểu cho không gian văn hóa, tâm linh truyền thống của người Việt vùng châu thổ sông Hồng.

Trẻ em Thổ Hà làm nghề truyền thống sản xuất bánh đa nem

Bên cạnh những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc, Thổ Hà còn nổi tiếng với nghề làm bánh đa và mì gạo. Bánh đa nem Thổ Hà có màu trắng, mềm dẻo và khi đem cuộn rồi rán lên sẽ ra thứ nem giòn mà không vỡ. Mì gạo Thổ Hà cũng nổi tiếng khắp xa gần bởi độ dẻo dai, thơm ngon. Chưa kể đến món bánh đa vừng, bánh đa dừa nức tiếng xa gần bởi vị bùi, ngọt và ngậy. Điểm đặc biệt trong cách phơi bánh của người Thổ Hà là phơi gió chứ không phải phơi nắng nên vỏ dai và dễ cuốn. Bột gạo làm bánh là loại gạo tẻ nguyên chất, được người dân xay thủ công bằng cối đá để tạo độ kết dính chuẩn mực. Du khách khi rời Thổ Hà thường mua những tấm bánh đa, những xách mì gạo đơn sơ về làm quà, và không quên mang theo vài cút rượu làng Vân nồng ấm khi xuôi dòng sông Cầu tạm biệt. Chợt nghe ai đó đọc đôi câu của nhà thơ Phan Vũ: “Rượu làng Vân lung linh men ngọt/ Mắt cô nàng lúng liếng đong đưa/ Những chàng trai say suốt cả mùa”…

Thổ Hà cũng là vùng đất tươi đẹp và bay bổng với các lễ hội truyền thống đa dạng sắc màu. Khi con chim én gọi xuân về, nơi đây sẽ náo nức tổ chức các lễ hội du xuân, trong đó có lễ hội Thổ Hà – Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Du khách sẽ được đắm mình trong những làn điệu quan họ liền anh, liền chị quyến luyến lòng người; được hát đối quan họ trên con thuyền trôi lững thững giữa dòng sông Cầu; được hòa mình tươi trẻ vào các trò chơi dân gian chơi đu, chọi gà, vật, đánh cờ bỏi, thi bơi bắt vịt… Chẳng thế mà Thổ Hà từng được vua Tự Đức ban tặng cho bốn chữ: “Mỹ tục khả phong”, ghi nhận đây là nơi có nhiều phong tục tập quán đẹp, đáng để các nơi hướng về, học hỏi.

Hát đối Quan họ trên sông Cầu

Với những giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật của một vùng quê đậm đà bản sắc, làng cổ Thổ Hà là điểm đến ý nghĩa với những ai muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về nét đẹp trong đời sống của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Đến và cảm nhận, để thấy hồn Việt lẩn khuất trong từng thớ đất xưa cũ, trong từng mái ngói rêu phong nhuốm đầy ký ức tháng năm, trong từng nhịp khua chèo thong thả trên sông Cầu thơ mộng.

Người đi xa vương vấn chốn bình yên, không khỏi chạnh lòng nhớ tới câu thơ của Đồng Đức Bốn dành tặng sông Cầu: “Anh xa để lạnh đôi bờ/Đò em cứ chảy lơ thơ giữa dòng/Đừng buông giọt mắt xuống sông/Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”.

—-

Bài: Winlinh – Ảnh: Nguyễn Hữu Thông

Published in: on 16/08/2023 at 1:38 Sáng  Gửi bình luận  

Núi Thủng – Tạo tác kỳ diệu của thiên nhiên

Ở tỉnh Cao Bằng, có nhiều ngọn núi Thủng độc đáo nằm ẩn mình trong những thung lũng xanh. Núi Thủng còn có tên là núi Mắt Thần, tiếng Tày là “Phja Piót”, nghĩa là núi bị thủng một lỗ xuyên từ bên này sang bên kia. 

Núi thủng ở xã Ngũ Lão huyện Hòa An nằm ẩn mình trong thung lũng xanh

Các ngọn núi Thủng ở của huyện Hòa An, Quảng Hòa, Trùng Khánh… đều nằm trong công viên địa chất Cao Bằng, hình thành và phát triển trong quá trình kiến tạo địa chất hàng trăm triệu năm với địa hình đá vôi dạng tháp, dạng nón.

Các nhà địa chất đã tìm thấy những hóa thạch cổ sinh như Huệ biển, Trùng thoi… trong đá vôi và các mặt cắt thể hiện dấu ấn trong quá trình đứt gãy của đá vôi hệ tầng Bắc Sơn. Người ta gọi là núi Thủng hay núi Mắt Thần là bởi trên đỉnh núi có một khoang rỗng rất lớn, như bị ai đó khoan thủng và cũng giống một con mắt núi ẩn chứa trong đó những câu chuyện thần bí. Nơi khoang núi ấy, quanh năm cỏ cây tươi tốt, từng vệt nắng xuyên qua thẳng tắp sáng lấp lánh và mây bay quẩn quanh khiến đất và trời như nhòa lẫn, không còn ranh giới.

Người dân bản địa với nghề nông truyền thống

Có những ngọn núi thủng nằm cách không xa quần thể hồ Thang Hen với 36 hồ nước ngọt tự nhiên, thông nhau bởi các hang động ngầm dưới lòng đất. Chính điều này đã khiến hồ Thang Hen có hiện tượng mực nước thay đổi theo mùa, thậm chí theo ngày khi có lúc nước rút rất đột ngột chỉ trong vài tiếng. Ghé thăm Thang Hen vào mùa xuân bạn sẽ được ngắm cây cối, cảnh vật rạng rỡ với trăm hoa rực rỡ, rất thích hợp để ngồi thuyền du ngoạn, ngắm cảnh. Nếu đến nơi đây vào mùa hè, bạn sẽ được hưởng bầu không khí trong lành với cây cối hai bên hồ trổ lá xanh tươi. Vào mùa mưa, nước hồ dâng cao do mưa nhiều tạo thành chuỗi 36 hồ nước mênh mông trải dài. Mặt hồ như tấm gương trong cho những ngọn núi xám cúi mình soi bóng. Vịt bơi thảnh thơi giữa dòng nước lặng và trên bờ trâu bò thong dong gặm cỏ. Vào mùa khô, hai bên hồ vàng ươm sắc lá và càng nên thơ hơn khi hoa dã quỳ đã bung mình nở rộ. Lúc này, nước hồ cạn đi để lại lớp bùn non làm nền cho cỏ mọc lún phún xanh biếc trên mặt hồ. Nước rút đến mức người dân nơi đây còn lội xuống lòng hồ bắt được rất nhiều cá. Trong quần thể hồ Thang Hen còn có thác Năm Trá rộng 15ha. Thác không cao nhưng có rất nhiều dòng chảy uốn lượn xen giữa những mỏm đá cao thấp lô nhô, dào dạt tuôn về mặt hồ Nặm Trá như những dải lụa mềm dài vô tận.

Du khách cắm trại ngắm cảnh non nước hữu tình ở xã Quốc Toản huyện Quảng Hòa

Du khách đến các núi Thủng có thể chọn nghỉ dưỡng ở khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen trong những nếp nhà sàn truyền thống. Hoặc thú vị và trải nghiệm hơn nữa, bạn hãy đem theo lều bạt để cắm trại trong thung lũng bình yên này. Chỉ cần một chiếc trại gọn nhẹ với đôi ba vật dụng cần thiết là bạn đã có một ngày vui đáng nhớ ở đây rồi. Nếu muốn ngủ lại, bạn cần chuẩn bị thêm chăn mỏng và gối cùng đồ ăn nhanh hoặc bếp nướng. Ban ngày, bạn đi thăm thú cảnh sắc núi non sông hồ và chụp những bức ảnh lưu niệm tuyệt đẹp. Thú vị hơn, bạn có thể thả mình trên chiếc thuyền độc mộc xuôi dòng nước lặng ở hồ lớn Thang Hen, Nặm Trá hay các hồ nhỏ trong quần thể hồ nơi đây như Thang Vạt, Thang Loỏng, Nà Ma… để khám phá sâu hơn hệ thống sông hồ đa dạng. Khi màn đêm buông xuống, bạn sẽ được ngắm trăng sao lấp lánh trên bầu trời huyền bí, quây quần kể nhau nghe những câu chuyện truyền thuyết về vùng đất này, rồi dần chìm vào giấc ngủ cùng núi rừng yên ả. Khi được hoàn toàn thả lỏng giữa không gian yên tĩnh hoang sơ, trong bạn sẽ tràn ngập cảm giác an yên tự tại bởi con người như được tan lẫn cùng thiên nhiên. 

Khung cảnh thanh bình dưới chân núi Thủng Nặm Trá ở huyện Quảng Hòa

Ngọn núi Thủng được nhiều du khách biết đến nhất nằm ở xã Quốc Toản huyện Quảng Hòa. Muốn khám phá đời sống của người dân bản địa, từ núi Thủng bạn đi bộ khoảng 15 phút sẽ đến xóm Bản Danh nơi có người Tày đang sinh sống. Đi qua những hàng rào đá đặc trưng, bạn sẽ lạc vào một xóm bản mộc mạc với những nếp nhà sàn đơn sơ gần gũi. Người dân nơi đây quanh năm sống đời bình dị, chăm chỉ trồng lúa, trồng ngô và chăn nuôi gia súc. Đi sâu xuống phía dưới thung lũng, sẽ thấy những ngôi nhà cổ với kiến trúc bằng đá lẩn khuất dưới những tán cây rừng đã vương bụi thời gian. Thấp thoáng phía xa là các loài cây báng, nghiến hay trám lúc lỉu quả trắng, quả đen vị bùi thơm ngậy. Khi bụng đã đói, bạn hãy tìm ăn những món đặc sản như cá chiên sông Gâm, cá tôm hồ Thang Hen, nhộng ong xào măng chua, rau dạ hiến, xôi trám, miến dong đen, lạp xưởng hun khói, rượu ngô men, mèn mén, ngô nếp… để tận hưởng trọn vẹn cả thiên nhiên lẫn ẩm thực nơi này.

Giữa đất trời bao la, đứng trên đỉnh Mắt thần lộng gió, nơi chiếc cổng vòm rêu cỏ xanh um với mây trôi bảng lảng trên đầu, ta có thể ngắm cả một khoảng trời xanh nhấp nhô bóng núi và thảm cỏ xanh, mặt nước trôi êm phía dưới. Thấp thoáng từng cánh chim chấp chới bay về tổ bên những lũy tre tươi tốt tỏa vồng. Bãi ngô rợp lá xào xạc. Đồng lúa chín đang vào mùa. Hoàng hôn buông xuống, những bóng người gánh lúa, gánh rơm về bản, trong mắt họ ánh lên nụ cười dung dị bình yên.

Bài: Winlinh
Ảnh: Thành Thế Vinh, Vũ Minh Quân

Published in: on 10/08/2023 at 3:23 Chiều  Gửi bình luận  

Nơi đại ngàn khoáng đạt

Ngày chưa biết Buôn Đôn, tôi từng nghe đôi ba người than vãn: “Buôn Đôn chả có gì đâu, đi loanh quanh chỉ thấy mỗi núi rừng sông suối” hoặc “Giờ Buôn Đôn đô thị hóa mất rồi, không còn người dân tộc mấy đâu”. Nhưng với riêng tôi, chuyến dừng chân tại Buôn Đôn lại là dấu ấn đáng nhớ nhất trong chuỗi hành trình khám phá vùng đất đỏ Bazan đại ngàn khoáng đạt.

Kiểu nhà dài của dân tộc Ê Đê

Với những ai thích đi theo lộ trình với sự hướng dẫn của hướng dẫn viên du lịch thì có thể tìm đến những địa điểm nổi bật của Buôn Đôn như Khu du lịch quần thể cầu treo, Khu du lịch sinh thái Bản Đôn – Ánh Dương, Vườn Quốc gia Yok Đôn, Thác Bảy Nhánh – Thanh Hà hay Trang trại du lịch Vườn Troh Bư để được thăm quan tổng thể. Còn với tôi, tôi thích tự mình khám phá vẻ hoang dã nguyên sơ và yên bình của Buôn Đôn theo góc nhìn riêng. Vẻ đẹp Buôn Đôn sẽ chỉ hiển hiện khi bạn bước chậm lại, thả lỏng tâm trí, ngắm nhìn và lắng nghe để cảm nhận thật sâu vẻ đẹp thiên nhiên và bản sắc văn hóa Tây Nguyên lẩn khuất trong từng sinh hoạt đời thường dung dị.

Rừng Khộp – Vườn Quốc gia Buôn Đôn

Tháng 11, trời miền Trung Tây Nguyên lãng đãng, dìu dịu, rất phù hợp để vào rừng. Mùa này mưa đã ngớt, nắng không quá gắt, bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi thăm Buôn Đôn trong cả một ngày dài mà không mỏi mệt. Hãy bắt đầu chuyến đi lý thú bằng việc khám phá vườn quốc gia Yok Đôn với cảnh quan đa dạng và phong phú. Buôn Đôn và Ea Súp của tỉnh Đắk Lắk (cùng với Cư Jút của tỉnh Đắk Nông) là ba huyện được hưởng trọn không gian của khu rừng đặc dụng mang tên “rừng khộp”. Rừng khộp là loại rừng thưa cây, rụng lá vào mùa khô, có cấu trúc tán đơn giản, chủ yếu chứa các loại cây thuộc họ Dầu. Bạn có thể thảnh thơi đi bộ, đạp xe trong rừng sâu dưới bóng những tán lá mát rợp hoặc chinh phục đỉnh Yok Đôn nếu hứng thú leo núi, hoặc thử làm kiểm lâm để thực tế công việc gác rừng nhiều thú vị. Người yêu vẻ đẹp tự nhiên sẽ thích thú khi được khám phá nơi này trong khi người ưa vẻ nhân tạo sẽ ít nhiều thất vọng bởi Buôn Đôn còn đơn sơ quá. Với tôi, đơn sơ là một vẻ đẹp, hoang dã là một giá trị. Sau lớp mưa phùn sáng sớm, nắng bắt đầu hé, sưởi nhẹ cho những loài hoa dại vô tư khoe sắc. Mùa khô, mùa lá rụng, vườn quốc gia Yok Đôn như được nhuộm muôn ngàn sắc đỏ vàng nên thơ. Ai bảo Tây Nguyên không có mùa thu?

Buôn Đôn cuối mùa mưa

Nhắc đến Buôn Đôn thì không thể không nhắc tới dòng Sêrêpôk. Sông Sêrêpôk là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Tại Đắk Lắk, sông có đoạn mang tên là Đăk Krông và chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp của tỉnh này. Sông Sêrêpôk là linh hồn và biểu tượng của vẻ đẹp Buôn Đôn, là con sông duy nhất của Việt Nam có dòng chảy ngược về phía Tây. Sông Sêrêpôk là nơi hội tụ của nhiều nhánh sông, suối nhỏ, chất chứa bao tinh hoa và câu chuyện đời người. Lưu lượng dòng chảy lớn không chỉ tạo ra các giá trị về thủy điện mà còn khiến hệ sinh thái nơi đây trở nên đa dạng, phong phú… Dòng Sêrêpôk đẹp bởi có nhiều ghềnh thác như thác Đray Sáp, Trinh Nữ, Đray H’linh, Đray Nu, Gia Long và Bảy Nhánh. Thác Bảy Nhánh được nhiều người tìm đến bởi sự đặc biệt khi dòng chảy về qua đây gặp ghềnh đá lớn thì chia làm ra 7 nhánh nhỏ chảy qua các tảng đá. Ai đó theo thuyền độc mộc xuôi dòng Sêrêpôk sẽ khám phá ra ốc đảo Ea Nô và lắng nghe câu chuyện tình của chàng trai M’Nông cùng nữ tù trưởng Ê Đê. Trên chặng hành trình của sông Sêrêpôk, du khách hãy thử cảm giác rung rinh, chơi với trên cầu treo bắc qua sông hay tới hồ Lăk,Thác Phật, suối Đắk Lau, Đắk Te, Đăk Ken để thư giãn, câu cá và bơi lội.

Biểu tượng của Buôn Đôn chính là voi và nghề săn bắt, thuần dưỡng voi rừng. Đến Buôn Đôn, bạn sẽ có cơ hội ngắm bầy voi đủng đỉnh đi theo đoàn vào rừng hay lội sông. Mỗi con voi sẽ chở được 4 người, gồm cả người quản voi, đi lững thững trên con đường rừng bằng phẳng hay lội qua dòng nước trong vắt soi bóng mây trời. Bạn cũng có thể thực tế nghề quản voi khitham gia các hoạt động tìm voi trong rừng, điều khiển voi, cho voi tắm, chăm voi ăn… Du khách sẽ được nghe bà con kể câu chuyện về tù trưởng N’Thu K’Nul, người đã có công trong việc lập ra Buôn Đôn và hình thành nghề săn bắt, thuần dưỡng voi. Ông được VuaThái Lan phong tặng danh hiệu Khunjunop (Vua săn voi) và khi qua đời đã được người dân xây mộ để tưởng nhớ. Du khách đến Buôn Đôn sẽ không thể bỏ qua mộ Vua Voi với lối kiến trúc độc đáo, chất chứa câu chuyện về quá trình hình thành, phát triển của Buôn Đôn với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng nổi tiếng bao đời.

Ché rượu bên trong nhà dài Ê Đê

Huyện Buôn Đôn có sự sinh sống của đồng bào các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, M’Nông… tạo nên một quần thể văn hóa đặc sắc, đa dạng. Người ưa khám phá bản địa sẽ chọn cách cùng ăn, cùng ở với bà con để cảm nhận chân thực phong tục tập quán đồng bào. Đi lững thững trên triền đất rộng, bạn sẽ được ngắm hoa cà phê nở trắng hay bị hút theo những dáng thổ cẩm đang gùi măng thấp thoáng rẻo cao. Bước vào những ngôi nhà sàn, nhà dài Ê Đê có tuổi đời trăm năm, bạn sẽ được sống trong không gian đồng bào với những nếp văn hóa khác biệt với lối sống của người Kinh. Những ngôi nhà nằm bình yên, luôn rộng mở đón bạn vào và hình ảnh quen thuộc là bên bậc cửa, một cô gái đang thêu thùa đan lát hay một cụ già ngồi tựa cửa thảnh thơi sẽ cười rổn rảng khi gặp người quen và cười rất hiền khi gặp người lạ. Khi đã kiếm được cho mình một nơi để ở giữa lòng dân bản, bạn sẽ được hòa nhập vào đời sống một cách thực sự như được thưởng thức rượu cần nồng đượm; say sưa trong vũ điệu cồng chiêng với điệu dân ca Eacray, Gứt và chìm đắm trong tiếng kể Khan (sử thi) của già làng tóc bạc. Bạn sẽ được tham gia các trò chơi cà kheo, bịt mắt đập niêu đất, lăng mình trên xích đu hay bập bênh bằng gỗ để nghe tiếng cười trong vắt của mình dội lại từ rừng xa. Bạn cũng sẽ muốn mang về chút lưu niệm như thuốc và rượu Amakong hay những miếng thổ cẩm rực rỡ… Và hẳn sẽ nhớ rất lâu ẩm thực núi rừng bởi cơm lam dẻo nướng trong ống nứa, thịt heo giòn sật, thịt nai bùi thơm, nhộng sâu muồng, gà nướng Bản Đôn, măng khô đượm nắng, lẩu rau rừng thanh mát nấu cùng thịt và tôm khô, những miếng cá ngọt vị sông Sêrêpôk…

Dệt thổ cẩm là một trong những nghề truyền thống của người Ê Đê

Huyện Buôn Đôn có sự sinh sống của đồng bào các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, M’Nông… tạo nên một quần thể văn hóa đặc sắc, đa dạng. Người ưa khám phá bản địa sẽ chọn cách cùng ăn, cùng ở với bà con để cảm nhận chân thực phong tục tập quán đồng bào. Đi lững thững trên triền đất rộng, bạn sẽ được ngắm hoa cà phê nở trắng hay bị hút theo những dáng thổ cẩm đang gùi măng thấp thoáng rẻo cao. Bước vào những ngôi nhà sàn, nhà dài Ê Đê có tuổi đời trăm năm, bạn sẽ được sống trong không gian đồng bào với những nếp văn hóa khác biệt với lối sống của người Kinh. Những ngôi nhà nằm bình yên, luôn rộng mở đón bạn vào và hình ảnh quen thuộc là bên bậc cửa, một cô gái đang thêu thùa đan lát hay một cụ già ngồi tựa cửa thảnh thơi sẽ cười rổn rảng khi gặp người quen và cười rất hiền khi gặp người lạ. Khi đã kiếm được cho mình một nơi để ở giữa lòng dân bản, bạn sẽ được hòa nhập vào đời sống một cách thực sự như được thưởng thức rượu cần nồng đượm; say sưa trong vũ điệu cồng chiêng với điệu dân ca Eacray, Gứt và chìm đắm trong tiếng kể Khan (sử thi) của già làng tóc bạc. Bạn sẽ được tham gia các trò chơi cà kheo, bịt mắt đập niêu đất, lăng mình trên xích đu hay bập bênh bằng gỗ để nghe tiếng cười trong vắt của mình dội lại từ rừng xa. Bạn cũng sẽ muốn mang về chút lưu niệm như thuốc và rượu Amakong hay những miếng thổ cẩm rực rỡ… Và hẳn sẽ nhớ rất lâu ẩm thực núi rừng bởi cơm lam dẻo nướng trong ống nứa, thịt heo giòn sật, thịt nai bùi thơm, nhộng sâu muồng, gà nướng Bản Đôn, măng khô đượm nắng, lẩu rau rừng thanh mát nấu cùng thịt và tôm khô, những miếng cá ngọt vị sông Sêrêpôk…

Vùng trồng điều ở Buôn Đôn

Rời Buôn Đôn, vùng đất đỏ Bazan huyền thoại với vị thiên nhiên đượm mùi nắng gió đại ngàn, người biết thưởng thức vẻ đẹp hoang dã thực sự của Tây Nguyên chắc chắn sẽ muốn quay trở lại, không chỉ một lần.

Bài: Winlinh Ảnh: Bá Ngọc

Published in: on 05/08/2023 at 11:29 Sáng  Comments (3)  

Nhộn nhịp cảng cá ngừ Phú Yên

Mặt trời đã lên cao, biển Phú Yên sáng đầu hè bình yên dưới màu nắng mật ong khỏe khoắn của miền Trung gió lộng. Phú Yên đâu chỉ nổi tiếng với hoa vàng trên cỏ xanh mà còn là quê hương của nắng vàng biển bạc. Nơi đây có thế mạnh về khai thác hải sản với số lượng tàu thuyền lớn ở khu vực miền Trung nên có nhiều cảng cá ngay trong thành phố Tuy Hòa. Các cảng cá Đông Tác, Dân Phước, Phú Lạc, Tiên Châu (trước còn có cảng cá Phường 6 nay đã đóng bến)… đều là điểm ghé quen chân của anh em thuyền chài.

Cá ngừ được vận chuyển từ tàu lên bờ

Những năm gần đây, nghề câu cá ngừ đại dương phát triển mạnh ở Phú Yên khi nhu cầu tiêu thụ cá ngừ ngày càng tăng cao. Đặc biệt là xuất khẩu cá ngừ sang các nước, nhất là Nhật Bản, có rất nhiều cơ hội phát triển. Nhiều ngư dân Tuy Hòa đã mạnh dạn đầu tư tàu lớn ra khơi đánh bắt hải sản. Mọi người hay nói Phú Yên chính là thủ phủ của cá ngừ đại dương quả không sai. Muốn bắt được cá ngừ đại dương, ngư dân phải dùng mực xà tươi để làm mồi nhử. Họ thả sợi cước gắn lưỡi câu móc mực xà tươi xuống biển sâu 60m đến 100m và từ lúc cá cắn câu đến khi đưa được lên khoang tàu phải mất chừng 30 phút. Vui hơn nữa khi thuyền nào bắt được cá ngừ vây vàng hoặc vây xanh. Một chuyến ra khơi thu được 2-3 tấn cá coi như thắng lợi. Những con cá ngừ to dài, tròn quay chắc nịch, da đen bóng được ngư dân vác như bay trên sàn tàu rồi quăng rất ngọt xuống chiếc càng đợi sẵn trên sàn bến. Từ biển, cá sẽ theo những chuyến xe tải lạnh đến các nhà máy chế biến. Nếu cá ngừ qua được vòng kiểm định của chuyên gia Nhật Bản để có thể làm sashimi thì giá bán sẽ cao gấp nhiều lần so với thương lái thu mua thông thường. Nhiều người dân phất lên nhờ đánh bắt cá ngừ, nhiều thuyền thắng lớn khi ra khơi thu được những con cá ngừ nặng hàng trăm kilogam. Ngư dân Phú Yên luôn trông chờ đổi đời nhờ đánh bắt và xuất khẩu cá ngừ nên cũng luôn tìm hiểu, học hỏi để cải tiến, hoàn thiện quy trình bảo quản đáp ứng quy định khắt khe của đối tác quốc tế.

Đánh bắt cá ngừ đại dương đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho ngư dân Phú Yên

Những người đàn ông ra khơi, giữa sóng gió không nao núng, khi về đất liền lại trở nên điềm đạm hiền lành. Họ vui vẻ vừa nói cười, vừa hò nhau ròng cá lớn từ khoang thuyền lên để chuyển đi cân và phân loại. Mỗi chuyến đánh bắt thường kéo dài cả một đến hai con trăng, tức là một tới hai tháng. Xa nhà, xa đất liền, sau khi bàn giao mẻ cá tươi, họ sẽ được về nhà ăn bữa cơm gia đình đầm ấm. Nhưng ở nhà vài ngày, ngư dân lại nóng lòng muốn ra khơi bởi tàu thuyền chính là ngôi nhà thứ hai của họ, và hy vọng làm giàu nhờ biển chưa bao giờ ngưng lại.

Theo phong tục, phụ nữ không được bước chân lên thuyền nên họ mưu sinh bằng đủ thứ việc trên bờ

Theo phong tục miền biển, những người phụ nữ không bao giờ được bước chân lên thuyền. Vì vậy đàn ông ra khơi và nhường phụ nữ làm những việc trên bờ, phổ biến nhất là nghề rảo cá. Đàn bà ra bến rất đông, họ quây kín mặt mũi đầu tóc để tránh nắng, đón con tàu lớn đang dần tiến vào cảng với háo hức đợi chờ. Phụ nữ Phú Yên có khí chất mạnh mẽ, nhanh nhẹn, dẻo dai và linh hoạt. Khi cánh đàn ông chuyển cá từ khoang tàu lên, các bà chia tốp hai hoặc bốn người (tùy cân nặng của cá) đặt cáng trên vai để di chuyển cá về nơi cân và phân loại. Cũng có nhiều chị đã đứng đợi sẵn bên chiếc xe đẩy nhỏ gọn để tự mình đẩy bon bon chú cá cồng kềnh. Từng giọt mồ hôi rớt rơi dưới nắng to, mũ nón, khẩu trang hai ba lớp cũng chẳng đủ bảo vệ cho làn da phụ nữ bớt đen xạm. Nhưng trong giọng nói tiếng cười của họ luôn chứa đựng niềm lạc quan của những phụ nữ chẳng thể liễu yếu đào tơ bởi họ vốn sinh và ra lớn lên ở miền biển cả.

Món sashimi được chế biến từ cá ngừ tươi

Vui sao, trên mỗi con thuyền thường có một lá cờ tổ quốc, để các thuyền nhận ra đồng hương và để chúng ta khẳng định rõ chủ quyền biển của Việt Nam khi đánh cá ở ngư trường lớn. Mỗi lần cá về là cả khu cảng nhộn nhịp, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Đời sống cứ ngày nối ngày trôi trên những cảng cá bình yên và sống động. Có háo hức người đi, có mong ngóng người về. Có vui khi tìm được luồng cá dày, có buồn khi chẳng đánh được cá to. Dù thế nào họ cũng vẫn lạc quan tin vào những chuyến tàu đầy ắp cá.

Bài: Winlinh – Ảnh: Bá Ngọc

Published in: on 05/08/2023 at 11:27 Sáng  Comments (2)  

Hồ Bản Viết mùa phong thay lá

Nhắc đến huyện Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng, nhiều người sẽ liên tưởng tới những thắng cảnh nổi tiếng như thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, núi Mắt thần, hồ Thang Hen… Tuy nhiên, ít ai biết rằng Trùng Khánh còn có một địa danh rất ấn tượng đáng để khám phá, đó là hồ Bản Viết.

Hồ Bản Viết là một hồ nước ngọt nhân tạo nằm ẩn sâu trong cánh rừng tự nhiên thuộc địa phận hai xã Phong Châu và Tân Phong của huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh chức năng điều tiết nước tưới tiêu cho đất canh tác nông nghiệp cho bà con trong vùng, hồ còn là địa điểm du lịch được yêu thích bởi cảnh quan đặc sắc nên thơ. Hồ rộng 5 ha, dài hơn 6km, sâu 50m, được chia làm bốn nhánh với hệ sinh thái và thảm thực vật đa dạng, phong phú. 

Đến với hồ Bản Viết, du khách có thể lựa chọn hình thức du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng để thư giãn và tái tạo sức khỏe như cùng người thân, bạn bè cắm trại, nhóm lửa, tụ tập ăn uống, hát ca hoặc dành thời gian đạp xe quanh hồ tận hưởng cảm giác thư thái tĩnh tại sau những ngày bận rộn. Nếu muốn trải nghiệm cảm giác mạnh hơn, bạn có thể đi rừng, leo núi để khám phá trọn vẹn cảnh quan hùng vĩ nơi đây. Còn gì thú vị hơn khi chân được bước trên những đám lá khô lạo xạo trong rừng vắng, mũi được hít hà mùi của cây cỏ hồn nhiên, tai được lắng nghe tiếng chim kêu chíu chít trên những tàng cây cao đầy nắng. Đặc biệt, bạn đừng quên trải nghiệm cảm giác đi thuyền bè trên hồ rất thi vị. Người dân địa phương nơi đây sẽ đưa bạn đi thăm hồ trên những chiếc bè mảng để khám phá cảnh vật, bạn sẽ thấy mình như đang lạc vào chốn thần tiên ảo diệu. Quanh bạn chỉ còn ánh nắng lấp lánh chiếu qua hàng cây soi bóng mặt hồ, gió hiu hiu thổi, những con sóng lăn tăn gợn nhẹ nhàng, bầu không khí thiên nhiên êm dịu thoáng đãng. Mặt hồ xanh biếc như ngọc soi gương những đám mây trắng lững lờ trôi. Ngước nhìn lên, những ngọn núi xám trập trùng đan xen nhau giữa muôn trùng cây cỏ, bầu không khí mát rượi trong lành ấy sẽ giúp bạn hoàn toàn thư giãn và quên hết những xô bồ bụi bặm ngoài kia.

Khi du lịch hồ Bản Viết, bạn hãy thu xếp thời gian hợp lý để được ngắm cảnh vào buổi bình minh đầu ngày tuyệt đẹp. Thức dậy sớm, bạn sẽ được chứng kiến những màn sương trắng vây phủ buông la đà trên mặt nước tịch mịch. Thấp thoáng bóng người đang chèo thuyền trên mặt hồ tĩnh lặng tựa như một bức tranh thủy mặc trong miền cổ tích. Khoảnh khắc ấy sẽ dần được biến chuyển khi mặt trời lên, những tia nắng xiên qua và tạo nên một ảo ảnh khói sương rực rỡ đầy màu sắc. Cho đến khi sương tan, nắng đã lên cao, hồ trở nên quang đãng và sáng rỡ một vẻ đẹp đầy sức sống. Lúc này, bạn sẽ nhìn thấy tòa vọng lâu nằm yên bình nổi bật giữa hồ với mái ngói đỏ tươi trên nền sơn màu trắng. Đây cũng là địa chỉ check in lý tưởng của du khách, là điểm nhận diện của hồ Bản Viết trong các bức ảnh lưu niệm. Rồi khi chiều dần buông, cảnh sắc vẫn không kém phần quyến rũ. Hoàng hôn khuất dần sau cánh rừng sâu, nhuộm đỏ sẫm cả mặt hồ lăn tăn tiếng gió đuổi nhau trên mặt nước lấp lánh ánh ánh sáng của mặt trời sắp tắt.

Hồ Bản Viết mùa nào cũng đẹp, bởi mỗi mùa sẽ có những đặc trưng riêng của nó. Mùa xuân, hoa lá đâm trồi nảy lộc, đua nhau khoe sắc thắm. Mùa hạ, cây cỏ xanh mướt, khỏe khoắn tắm mình trong ánh nắng vàng ruộm. Nhưng cảnh sắc được xem là ấn tượng và nên thơ nhất chính là vào thời điểm cuối thu và đầu đông, lúc rừng lá phong chuyển màu từ xanh thẫm sang vàng sậm rồi rực đỏ. Khi ấy, cả vạt rừng như bừng tỉnh giấc, tỏa sắc rực rỡ và căng tràn sức sống mới. Cây lá đỏ chính là cây Phong Hương, còn gọi là cây Sau Sau, thuộc họ cây gỗ lớn, có thể cao tới 10m. Cây mọc hoang rải rác ở vùng rừng núi Cao Bằng nhưng tập trung dày ở khu vực rừng quanh hồ Bản Viết. Lá phong có màu đỏ đẹp nhất vào quãng cuối tháng 12 nên đây chính là giai đoạn rất nhiều du khách tìm đến để được tận hưởng không gian đẹp đẽ này. Lá phongcó mùi thơm và có thể ăn được nên thường được người dân nơi đây dùng để đồ xôi ngũ sắc hoặc ăn kèm với các món như rau sống. Nhìn từ trên cao xuống, rừng phong như một bức tranh khổng lồ vừa được người họa sĩ tài hoa đang phẩy những nét hoàn thiện cuối cùng, làm nên một bức tranh đẹp đến siêu thực lay động lòng người. Đến thăm hồ Bản Viết vào mùa phong thay lá, bạn sẽ được đắm chìm trong cảnh sắc thần tiên và đem về cho mình thật nhiều bức ảnh có một không hai trong đời.

Sau khi thăm hồ Bản Viết, bạn có thể đi khám phá những thôn làng nhỏ của người dân tộc Tày, Nùng sinh sống quanh đó để tìm hiểu về bản sắc văn hóa và nếp sinh hoạt của bà con nơi đây. Men theo những lối đi vào làng, bạn sẽ được ngắm nhiều ngôi nhà sàn cổ xây bằng đá với kết cấu khá độc đáo. Người dân nơi đây quanh năm sinh sống yên bình, chăm chỉ làm nông và trồng cây dẻ, cây mác mật… Sau khi thăm thú làng bản, bạn hãy khám phá thế giới ẩm thực đặc sắc của Cao Bằng với những món ngon đậm đà hương vị núi rừng sông suối của vùng Đông Bắc tổ quốc. Đó là bánh cuốn dẻo mịn, xôi ngũ sắc hay xôi trám bùi ngậy, nằm khau dẻo vị khoai môn thơm mùi mác mật, lạp sườn đượm mùi gác bếp, rau bò khai giòn tươi xanh, vịt quay thất vị đỏ au đậm đà, rượu men lá nồng ấm và hạt dẻ Trùng Khánh bạn mua mang theo trên đường về còn nóng thơm hôi hổi trong túi…

Chia tay nơi này, du khách không khỏi vấn vương mong một ngày sẽ được quay trở lại. Để được ngắm những đồng cải hoa trắng nở rộ mỗi khi đông về. Được thả mình trôi thong thả trên mặt hồ lăn tăn sóng gợn. Được ngắm cánh rừng bạt ngàn lá phong đỏ ối soi bóng nước trong. Được đắm mình trong không gian cổ tích khiến lòng ai quên hết những muộn phiền.

Published in: on 25/05/2023 at 4:51 Chiều  Gửi bình luận  

Người Dao Đỏ ở Quản Bạ – Hà Giang

Quản Bạ là một huyện miền núi thuộc tỉnh Hà Giang, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 46km về phía Bắc. Đây là nơi quy tụ nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Dao chiếm số lượng đông đảo nhất. Người Dao đỏ ở Quản Bạ có phong tục, tập quán, tín ngưỡng và văn hóa rất đặc trưng, góp phần làm nên bản sắc độc đáo của một vùng đất mà ai đã đến hẳn sẽ không muốn rời.

Tới thăm mảnh đất Quản Bạ núi non hiền hòa, du khách sẽ được gặp những người Dao đỏ chân chất trong các phiên chợ nhộn nhịp sắc màu, trên nương rẫy trù phú hoặc dưới các mái nhà lợp ngói âm dương cổ kính. Họ dường như hài lòng với cuộc sống giản đơn ấy, cứ chăm chỉ làm lụng và say sưa ca hát giữa núi rừng thư thái bình yên. Người Dao sinh sống ở nhiều vùng miền nhưng sinh hoạt cộng đồng vẫn mang tính khép kín. Họ duy trì giao tiếp bằng ngôn ngữ Dao và luôn ý thức phải truyền lại ngôn ngữ ấy cho các thế hệ sau. Khi dựng vợ, gả chồng cho con, người Dao cũng muốn gả trong cộng đồng để giữ được ngôn ngữ và phong tục tập quán của tộc người mình. Công việc quen thuộc của người Dao đỏ chủ yếu là làm nương rẫy để trồng lúa ngô, chăn nuôi, làm trang sức bạc, dệt vải, thuê thùa, trồng cây thuốc, trồng bông, làm nông cụ và se hương… Dân tộc Dao đỏ cùng các dân tộc anh em quanh vùng thường tham gia các buổi chợ phiên Tráng Kìm, Quản Bạ để cùng trao đổi, bán mua và giao lưu văn hóa. Những ngày có phiên chợ, người Dao đỏ lại xúng xính váy áo thổ cẩm sặc sỡ, trên lưng gùi nông sản, thực phẩm, trên tay đôi khi dắt cả vật nuôi… xuống chợ tụ họp.

Văn hóa tâm linh là yếu tố vô cùng quan trong trong đời sống dân tộc Dao, thể hiện đặc biệt qua các nghi lễ cúng bái và lễ hội. Người Dao đỏ có nhiều lễ và hội đặc sắc như lễ cấp sắc, lễ nhảy lửa, lễ ma khô, ngày kiêng sấm sét, ngày kiêng hổ… Người Dao đỏ còn có lễ bắt cá rất vui nhộn vào tháng ba âm lịch hàng năm. Khi ấy, các nam thanh nữ tú sẽ thi nhauc bắt cá, ai bắt được nhiều cá và bắt được cá to thì rất phấn khởi vì tin rằng gia đình mình sẽ có một năm đủ đầy, may mắn, bình an. Số cá bắt được tại lễ hội sẽ gom lại và chia đều cho các nhà, và những con cá ấy cũng được làm cơm để cúng tổ tiên. Đặc biệt, đối với người Dao, lễ cấp sắc là một trong những lễ rất quan trọng vì họ quan niệm người được cấp sắc mới thực sự là người trưởng thành, có quyền tham gia vào công việc của làng và khi chết mới được về với tổ tiên. Lễ cấp sắc dành cho con trai từ 10 tuổi trở lên, thường kết hợp làm cho nhiều người nên sẽ có nhiều thầy cúng phụ trách. Lễ được tổ chức trong suốt 2 – 3 ngày gồm rất nhiều nghi lễ cầu kỳ. Các thầy cúng sẽ đánh trống làm lễ khai đàn để mời tổ tiên về dự và xin phép tổ tiên được làm lễ cấp sắc cho đứa trẻ. Tại lễ thụ đèn, người thụ lễ được cấp đạo sắc với 10 điều cấm, 10 điều nguyện và được cấp pháp danh cũng như tên âm để khi chết họ được về với tổ tiên. Người thụ lễ lấy vạt áo để hứng gạo từ thầy cúng và cha mình rồi nhảy một số điệu theo chỉ dẫn. Cuối buổi lễ, các thầy cúng múa dâng rượu và lễ vật để tạ ơn các thần linh đã cho phép tổ chức lễ.

Về trang phục, người Dao đỏ luôn duy trì được bản sắc truyền thống đậm nét. Những người mẹ, người bà nơi đây truyền dạy cho con, cháu gái mình kỹ thuật dệt vải, thêu thùa từ bé nên phụ nữ Dao nào cũng sẽ tự may được cho mình, cho gia đình những bộ trang phục đẹp. Các đường thêu của người Dao đỏ chủ yếu là những hoa văn, họa tiết hình cây cỏ, hoa lá. Những đường chỉ thêu tỉ mỉ, cầu kỳ và cân xứng, thể hiện sự chăm chỉ cũng như tâm hồn và sức sống tươi mới của đồng bào Dao nơi đây. Quần áo của đàn ông Dao khá đơn giản, màu tối, khi trời lạnh, họ thường đội mũ nội và cổ quàng những chiếc khăn nhiều màu sắc. Trong khi đó, trang phục của người phụ nữ Dao đỏ lại rất cầu kỳ. Họ chú trọng nhấn nhá và trang trí ở các đường nẹp áo, gấu quần, hai bên ống tay, ngực áo và thắt lưng. Các bà, các cô thường mặc áo quần màu đen bên trong, bên ngoài xếp các lớp trang trí cầu kỳ gồm các dải vải buông dài quanh thân váy thêu hoặc in họa tiết rực rỡ. Bên cạnh các mảng thêu hoa văn trên ngực, họ còn gắn các dây hạt cườm nhiều màu sắc điệu đà nơi eo. Người Dao chuộng trang sức bạc nên trong các dịp quan trọng, họ thường đeo rất nhiều bạc lên cổ và quanh hông. Về mũ đội đầu, người phụ nữ Dao nơi đây thường vấn một chiếc vấn tròn màu đen cài cùng một chiếc khăn thổ cẩm với hai đuôi khăn chĩa thẳng lên cao. Phía sau lưng, họ sẽ quàng một chiếc khăn tua dua màu hồng hoặc pha trộn thêm các màu sắc khác, tạo điểm nhấn trong một tổng thể hài hòa và vô cùng điệu đà. Trang phục với người phụ nữ Dao đỏ không chỉ để che thân mà còn là nơi gửi gắm bao ước mơ, khát vọng và ẩn chứa những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh quan vừa giản đơn mà cũng vừa kỳ bí.

Nơi núi rừng nguyên sơ bốn mùa đều đặn đi qua, người Dao đỏ vẫn tiếp nối mạch sống đặc trưng, đậm đà hơi thở nguồn cội. Mặc cho ai đến rồi lại đi, người dân nơi đây vẫn sống đời sống thuần hậu của riêng mình mà không hề hay biết mình đang góp phần gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa đậm đặc, đa dạng của dân tộc Việt 54 anh em. Ai đó vừa rời Quản Bạ về xuôi, cứ bồi hồi nhớ mãi những dáng váy rộn rã sắc màu thấp thoáng nơi dẻo núi cheo leo, hệt như những vạt hoa xinh đang nhiệt thành nở rộ trong một chiều hoàng hôn nắng vàng lấp lánh.

Published in: on 20/05/2023 at 2:15 Chiều  Gửi bình luận  

Học cách sinh tồn, bồi dưỡng năng lực qua “Cẩm nang Kỹ năng dã ngoại”

Một bài giới thiệu sách đã rất xa xưa, nay lưu vào để giữ tư liệu ở blog cho tiện tra cứu.

Theo xu hướng hiện nay, càng ngày độc giả càng ham thích thể loại sách liên quan đến kỹ năng sống, bởi lẽ những gì nó đề cập là những gì bạn đọc thực sự cần cho cuộc sống của chính họ. Các bậc cha mẹ luôn mong muốn con cái mình được hạnh phúc và bình an. Tuy nhiên để có được điều đó thì không hề dễ dàng. Quan niệm làm hết mình để có đủ điều kiện lo lắng, chu cấp cho con đầy đủ mọi thứ là hoàn toàn sai lầm. Nếu bạn cứ bao bọc con bạn mãi, liệu chúng có lớn đủ về tinh thần, trí tuệ và bản lĩnh? Cẩm nang Kỹ năng dã ngoại sẽ là một trong những cuốn sách giúp các bậc cha mẹ hiểu rằng, muốn con cái mình bình an, hạnh phúc,  hãy tập cho chúng cách đối mặt với thực tế, khắc phục khó khăn từ những điều nhỏ nhất. Chính sự trải nghiệm và vượt khó sẽ giúp những đứa trẻ trưởng thành và biết trân trọng cuộc sống hơn.

Cuốn sách do Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành tuy chỉ dày chưa đến 200 trang nhưng chứa rất nhiều thông tin hữu ích đối với các bậc phụ huynh và con cái mình. Các tác giả Dương Vũ (chủ biên), Trần Ngọc Đoàn, Hàn Ngọc Lương, Phan Thanh Tùng viết cuốn sách này với mong muốn người lớn hãy dạy trẻ biết tự rèn luyện khả năng chịu đựng khó khăn, bất hạnh và vượt qua trở ngại vì đối với quá trình trưởng thành của trẻ, khó khăn và vấp váp là trường đại học tốt nhất. Với lối dẫn truyện sinh động, các tác giả sẽ kể về những “trò nghịch” của các bé trai, dạy các em một loạt kỹ năng để sinh tồn trong tự nhiên và khuyến khích những đứa trẻ tích cực khám phá cuộc sống bằng sự dũng cảm, đam mê. Sách cũng luôn nhắc nhở các em rằng, cần tự tin để khám phá, cần đam mê để phiêu lưu, nhưng cũng rất cần cẩn trọng để tránh gặp những nguy hiểm luôn rình rập.

Ngày nay, các chuyến sinh hoạt dã ngoại, tham quan ngoài trời là xu hướng và là nhu cầu không thể thiếu trong thanh thiếu nhi. Còn gì thích hơn khi được hít thở không khí trong lành của đồng ruộng, sự hoang sơ của rừng sâu và sự tươi vui xôn xao của biển cả. Còn gì vui hơn khi ta tự làm nên những cuộc vui đó bằng chính đôi tay và khối óc mình. 47 mục trong cuốn sách là 47 bài học vui vẻ, thú vị và hữu ích. Bạn đọc sẽ thích mê khi được học các kỹ năng thực tế để chinh phục những thử thách, đặc biệt là chinh phục và hòa nhập cùng thiên nhiên. Các em có thể học cách làm một chiếc võng chắc chắn để tự mình cảm nhận sự lâng lâng khi nằm trên nó. Các em cũng có thể theo sách mà làm được súng cao su và tự dựng lều trại trong rừng phòng sương gió và thú dữ. Các em cũng có thể cùng nhau kết bè để bơi sông tránh những nguy hiểm dưới dòng nước sâu không thể lường. Sẽ thú vị thế nào khi các em học được cách nhìn mây đoán diễn biến thời tiết, nhìn sao để nhận biết phương hướng. Sẽ tuyệt vời làm sao khi bạn trẻ có thể chỉ cho nhau cách nhận biết những chòm sao kỳ bí trên trời, thấy kia là chòm sao Đại Hùng, đây là chòm sao Tiểu Hùng, kia nữa là chòm sao Thiên Hậu. Bạn nghĩ thế nào khi biết những kiến thức cơ bản về hệ măt trời và nói vanh vách cho mọi người về trọng lượng, nhiệt độ, tuổi của mặt trời. Hẳn mọi người sẽ rất ngạc nhiên về sự hiểu biết sâu rộng của bạn mặc dù trên thực tế bạn chỉ đọc hết 1-2 trang sách trong cuốn sách này. Không cần là bác kiểm lâm, bạn cũng có thể nhìn cây đại thụ biết tuổi đời của nó. Không cần là ngư dân, bạn cũng sẽ được thử sức tát cá để có cá mang về. Bạn cũng sẽ được chỉ cách sản xuất than củi như một người làm than thực thụ. Hay ho làm sao khi chúng ta có thể nhận biết các loại côn trùng cũng như làm thế nào để “thuần chủng” chúng. Bạn cũng sẽ được sách chỉ cho các loại cây trong tự nhiên có thể ăn được để khi ở trong rừng vẫn không bị đói bị khát, từ rau sau, rau sam, rau tàu bay đến rau dớn, quả sung. Và còn nữa những kỹ năng tuyêt vời mà bạn trẻ cần có để bảo vệ chính mình như cách cấp cứu thông thường khi bị đỉa cắn, gãy xương, ngộ độc thực phẩm, ngất, làm thế nào để phòng muỗi đốt, chống đói bằng ếch, dùng thực vật để chữa bệnh…

Với tiêu đề “Thả một chút hy vọng xuống sông”, bạn đọc sẽ cảm thấy rất thú khi được hướng dẫn cách làm chiếc chai hy vọng để gửi chai đó với những thông điệp ý nghĩa cho bạn mình từ thượng du xuống hạ du của dòng sông. Đặc biệt nếu bạn không muốn để ai đọc được nội dung bức thư, bạn có thể học cách viết thư bằng mực tàng hình thật kỳ diệu trong sách. Bạn cũng sẽ có nhiều trò chơi tuổi nhỏ như chơi cờ quân, chọi gà bằng đầu gối, chơi lò cò. Bạn sẽ được thỏa sức sáng tạo với trò chơi trí lực cùng những que diêm nhỏ bé. Còn gì ý nghĩa hơn khi ta được tự tay gói tặng phẩm để tặng bạn bè, vừa vui vừa không tốn tiền. Còn gì sung sướng hơn khi ta được bạn bè ngưỡng mộ gọi là nhà ảo thuật khi ta mở được nút thắt tí hon của một sợi tóc…

Sách được viết bằng lối viết gần gũi và dễ hiểu. Hình minh họa ngộ nghĩnh, sát thực giúp làm rõ ý tưởng bài hướng dẫn vừa tạo sự sinh động cho cuốn sách. Những lời chỉ dạy thủ thỉ, thì thầm như lời chỉ dạy của người bố, lời tâm tình của người anh, người chị sẽ mang đến cho các bậc cha mẹ cảm giác được trở về tuổi thơ, khiến trẻ con dế thấm, dễ ngấm, dễ nhớ những hướng dẫn chỉ dạy từ sách. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc giáo dục lớp trẻ ở ngoài học đường, sách sẽ mang đến cho bạn đọc nhiều kiến thức, kinh nghiệm bổ ích, đặc biệt với các em nhỏ, các anh chị phụ trách công tác thanh thiếu niên và các bạn khác được giao trách nhiệm hướng dẫn các em đi cắm trại. Hãy đọc và khám phá, chắc chắn bạn sẽ thích cuốn cẩm nang tuyệt vời này!

Published in: on 10/05/2023 at 6:46 Chiều  Gửi bình luận  

Bộ sách “Cho các bạn trẻ của thế kỷ XXI”

Các bài viết dạng này chỉ mang tính lưu trữ, mong bạn blog không thấy phiền.

Khi cầm trên tay bộ sách dịch “Cho các bạn trẻ của thế kỷ XXI” (khổ 11x18cm), hẳn bạn sẽ không khỏi băn khoăn vì những tựa đề là lạ của chúng: Darwin và thuyết tiến hoá – giải thích cho cháu, Toán học – giải thích cho con, Biến đổi khí hậu – giải thích cho con, Văn hoá – giải thích cho con, Cái chết – giải thích cho con, Tình yêu – giải thích cho con, Tinh thần hiệp sĩ – giải thích cho em,  Ly hôn – giải thích cho con, Thế kỉ XX – giải thích cho cháu, Thói gia trưởng – giải thích cho con, Đạo lí – giải thích cho mọi người, Lòng nhân đạo – giải thích cho con. Bộ sách có những tựa đề lạ đó sẽ đưa bạn đọc vào một thế giới sinh động của những cuộc trò chuyện có thật, với cách hành văn phù hợp với giới trẻ.

Bộ sách được mua bản quyền theo hợp đồng giữa Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam và Nhà xuất bản Seuil (Pháp), trên nguyên gốc là một bộ sách có tới hàng trăm cuốn. Nhà xuất bản Giáo dục đã chọn ra những chủ đề cần thiết nhất với giới trẻ Việt Nam, bước đầu đem đến cho bạn đọc cách tiếp cận vấn đề một cách mới lạ. 12 cuốn sách mỏng như là 12 cuộc trò chuyện về các chủ đề khác nhau, được viết trên cơ sở những cuộc trò chuyện có thật của các chuyên gia với con cái mình. Đó là những vấn đề thiết thực mà con cái họ đặt ra với mong muốn được bố mẹ trả lời một cách rõ ràng, sinh động. Bằng những cuộc trò chuyện vừa gần gũi, sôi nổi, hóm hỉnh, các tác giả đã giải đáp những câu hỏi vừa khá thách thức nhưng cũng đầy ngộ nghĩnh của các em, không quanh co cũng không tránh né. Lối đối thoại nhẹ nhàng, tâm tình giúp chuyển tải nội dung một cách dung dị, thấm thía. Bạn đọc có thể tìm thấy cho mình những câu trả lời đầy thuyết phục và gần gũi thông qua những cuộc đối thoại đó.

Các cuốn sách trong bộ sách trên đã đề cập đến những vấn đề đang là mối quan tâm của toàn thế giới như bình đẳng giới, biến đổi khí hậu… và những vấn đề khoa học bổ ích, những kiến thức cơ bản sẽ theo các em suốt hành trình sống, như thiên văn, toán học, vật lý… Jean – Marc Jancovici chắc chắn sẽ làm say mê các bạn trẻ không chỉ bởi cuốn sách của ông thể hiện một cái nhìn mạch lạc về trạng thái hiện tại của hành tinh chúng ta (điều mà cả trường học hay các phương tiện đại chúng đều chưa làm được), mà còn bởi vì cuộc cách mạng cần thiết đối với các phương pháp tư duy có liên quan trực tiếp đến các bạn trẻ. Sự thiếu hụt dầu mỏ và nóng dần lên của khí hậu sẽ làm biến đổi tất cả: nơi ở, phương tiện giao thông, nghề nghiệp, cách sinh hoạt và tiêu dùng. Thảm họa môi trường sẽ tác động đến xã hội, nếu như không hành động điều đó chắc chắn sẽ xảy ra. Đây đồng thời cũng là cơ hội tuyệt vời để giải phóng sự sáng tạo và trí tưởng tượng, để suy nghĩ về ngành nghề tương lai với đầy đủ ý thức về các nguy cơ. Liệu các bậc cha mẹ “nghiện dầu mỏ” hiện nay có thể có những người con sáng suốt và khôn ngoan hơn họ? Cuốn sách “Biến đổi khí hậu – Giải thích cho con” có thể đóng góp vào điều đó.

Bên cạnh đó, những khái niệm trừu tượng như nhân đạo, văn hóa, đạo lý, cái chết… cũng được các tác giả giải thích cặn kẽ, khoa học, hợp lý. Bà Emmanuelle Huisman-Perrin là giáo viên triết học tại một trường phổ thông trung học, hiện đang điều phối chương trình giảng dạy về “Cái chết trong tương lai” của Viện nghiên cứu chính trị, đã coi trò chuyện với một đứa trẻ về cái chết có thể là một trong những cách tốt nhất để tiếp cận sát nhất với cuộc sống, để cố gắng đẩy lùi sự im lặng và nỗi lo sợ của con người đối với cái chết. Đó là một cách tiếp cận đặc biệt, nhưng khá thực tế. Về vấn đề nhân đạo, Jacky Mamou – tác giả cuốn sách cho rằng: Đây không phải là vấn đề dễ dàng nếu ai đó muốn nói về nó một cách trung thực. Những trang sách này sẽ tìm cách làm rõ điều ấy, giúp các em trả lời một câu hỏi đơn giản những rất cơ bản: Chúng ta đã làm được gì để giúp đỡ những người bất hạnh?

Ngoài ra, bộ sách cũng không quên trang bị cho các bạn trẻ kỹ năng sống về các vấn đề tình yêu, ly hôn khi các chương trình giảng dạy ở trường chưa có điều kiện đi sâu và cha mẹ học sinh còn chưa có phương pháp truyền đạt phù hợp cho con cái mình. Những “chuyện người lớn” mà các bậc cha mẹ học sinh Việt Nam vẫn thường lảng tránh, không muốn trao đổi thẳng thắn với con cái, nếu có phải nói tới thì cũng hoặc là ấp úng vòng vo, hoặc át giọng cho qua chuyện, với lí do “trẻ con chưa đến tuổi cần biết”, được các tác giả bộ sách đề cập bằng một lối trò chuyện gần gũi, hóm hỉnh, cởi mở và cũng không kém phần sâu sắc, lắng đọng. Câu chuyện của Patricia Lucas – một nhà quản lí nghệ thuật, mẹ của 3 đứa con 16 tuổi, 14 tuổi và 6 tuổi hiện đang chung sống với Stephane Leroy – một nhà biên tập, bố của hai đứa con 12 tuổi và 9 tuổi, cả hai đều đã từng li hôn, hiện đang sống chung với 5 đứa con của mình, sẽ là ví dụ sinh động, thực tế nhất cho vấn đề li hôn. Hai tác giả cuốn sách Nicole Bacharan và Domminique Simonnet đã giải đáp những câu hỏi thách thức của các em vị thành niên trên con đường dẫn tới “kho báu đáng gờm: tình yêu” để giúp các em tránh khỏi những sai lầm lớn trên con đường khúc khuỷu đang mở ra trước mắt các em.

Có thể nói, bộ sách trên là cuốn cẩm nang không chỉ cho bạn trẻ mà còn cho các bậc phụ huynh, góp phần giáo dục trẻ vị thành niên những kỹ năng sống, giá trị sống, bài học làm người. Với phương pháp dịch dễ hiểu, văn phong trong sáng, phù hợp với tâm lý người Việt; cách trình bày đẹp mắt, hiện đại, màu sắc rực rỡ, cuốn hút; nội dung thiết thực, bổ ích… bộ sách sẽ là món quà độc đáo và lý thú đối với độc giả. Trong một bối cảnh xã hội hội nhập, đa chiều và đầy phức tạp như hiện nay, học sinh Việt Nam cần phải được trang bị nhiều hơn những gì mà nhà trường phổ thông có thể trang bị – những hiểu biết sống động, thiết thực, phù hợp với đòi hỏi của đời sống. Điều đó sẽ giúp các em chủ động hơn, tích cực hơn trong việc tham gia vào đời sống ngay từ bây giờ. Vậy ngay bây giờ, bạn hãy để tủ sách gia đình mình đón thêm một bộ sách mới, để tâm hồn mình sẽ nhẹ nhàng, thông suốt hơn sau khi gấp những trang sách lại.

Published in: on 10/05/2023 at 6:44 Chiều  Gửi bình luận  

Truyện kể về các danh họa trên thế giới

Một bài cảm nhận sách viết và đăng cách đây đã rất nhiều năm.

Có thể thấy, càng ngày nhu cầu hiểu biết của con người càng lớn. Con người không chỉ học những gì cơ bản, hạn hẹp mà còn khát khao được tiếp cận với những điều phong phú, đẹp đẽ của thế giới, bởi quan niệm thẩm mỹ của chúng ta cũng dần dần trở nên tinh tế hơn. Những cuốn sách khoa học kỹ thuật, sách giáo khoa, tiểu thuyết, sách kỹ năng làm giàu… luôn là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, nhưng cũng không thể phụ nhận được sức hút của những cuốn sách có chủ đề về âm nhạc, hội họa, nhiếp ảnh… đang ngày càng khẳng định vị trí của mình một cách vững chắc. Chính những cuốn sách này mang đến cho chúng một cái nhìn cởi mở, sâu sắc hơn về nghệ thuật, về cái đẹp và những giá trị tuyệt vời của cuộc sống. Mong muốn đưa bạn đọc đến gần hơn với những tinh hoa của thế giới, NXBGD đã cho ra đời bộ sách “Truyện kể về các danh họa thế giới” gồm 3 tập của các tác giả Ngọc Phương, Nguyệt Minh, Ngân Hà. Bộ sách này nằm trong “Tủ sách Truyện kể” cùng với rất nhiều bộ sách khác như “Truyện kể về các nhà văn Việt Nam”, “Truyện kể về thần đồng thế giới”, “Truyện kể về các nhạc sĩ thiên tài trên thế giới”…

Mở sách ra, bạn đọc có một cảm giác rất dễ chịu, bởi cuốn sách ngoài những câu chuyện kể nhẹ nhàng còn xen kẽ rất nhiều hình ảnh đẹp. Đó là những bức chân dung của các nhà danh họa, những người trước đó chúng ta thường chỉ nghe tên mà ít thấy mặt. Đó là những bức tranh nổi tiếng thế giới đã khiến biết bao người rung động, thổn thức. Chỉ với 3 cuốn sách này, chúng ta dường như đã nắm bắt được cả thế giới hội họa trong tay. Bạn đọc có thể tìm thấy những nét khái quát, những giai thoại về cuộc đời của các họa sĩ và những tác phẩm của họ, qua đó có thể lí giải được vì sao và con đường nào đã dẫn dắt họ trở thành những danh họa của thế giới, góp phần làm cho nền mĩ thuật thế giới ngày một thêm phong phú, sinh động. Những câu chuyện về các danh họa cứ nhẹ nhàng thấm vào lòng người, khiến người đọc cảm thấy các họa sĩ cách xa mình hàng thế kỷ đang gần gũi đâu đây. Họ cũng có một đời sống bình dị nhưng có thể làm được những điều lớn lao, tại sao mình lại không thể, đó chính là động lực và niềm tin và khát khao sáng tạo mà người đọc tìm thấy qua cuốn sách.

Bộ sách không phiên âm tên của danh họa cũng như các tác phẩm của họ, bởi đối tượng độc giả của sách ngoài giáo viên, bạn đọc thông thường là các em học sinh từ cấp Trung học cơ sở trở lên, các em cần làm quen và tiếp xúc với các danh họa và tác phẩm của họ ở dạng nguyên ngữ, điều đó sẽ hữu ích cho các em trong việc tiếp xúc với các tư liệu, tài liệu khác trong cùng lĩnh vực và phù hợp với quy ước quốc tế. Và tên của các danh họa cũng được tác giả viết ngắn gọn, là tên thường gọi để bạn đọc không cảm thấy khó nhớ. Ở mỗi câu chuyện kể về một danh họa, cuốn sách đặt một tiêu đề ngắn gọn như là một lời đúc kết về cuộc đời, sự nghiệp của họ. Đó có thể chính là một câu nói của danh họa, hoặc nhận xét của giới chuyên môn về tài năng, phong cách của danh họa… nhưng nhìn chung nó toát lên được toàn bộ tinh thần về cuộc đời và sự nghiệp của các danh họa.

Lật giở từng trang sách, bạn đọc có thấy thể những cái tên quen thuộc như: Sandro Botticelli – Người trang hoàng tình yêu và sắc đẹp, ông nổi tiếng với bức tranh Thánh nữ và hài đồng, Mùa xuân, Sự ra đời của thần Vệ nữ; Pieter Bruegel, người được mệnh danh là họa sĩ của nông dân, tên tuổi của ông gắn liền với những bức tranh vẽ về đời sống hàng ngày của nông thôn và những người dân quê chân chất. Ông nổi tiếng với bức tranh Những trò chơi của trẻ em được vẽ chi tiết miêu tả 250 đứa trẻ đang chơi trò chơi, ẩn sau đó chính là lời nhắn nhủ, những việc người lớn làm hàng ngày phải chăng cũng chỉ như những trò chơi của trẻ con nên đừng phung phí thời gian vào những việc không đâu; Paul Cézanne – Người mở đường cho hội họa hiện đại đã tìm ra một con đường riêng, đem đến cho thế giới quan niệm mới về đối tượng của hội họa, về giá trị tự thân của bức hội họa; Isaac Ilyich Levitan, nhà thơ của hội họa Nga, nổi tiếng với những bức tranh tranh thiên nhiên Nga tuyệt đẹp, những bức tranh làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn Nga khiến nó trở nên bất diệt. Những bức tranh Buổi chiều trên sông Vonga, Rừng bạch dương, Mùa thu vàng, Cái yên tĩnh vĩnh hằng, Tháng ba, Tu viện yên tĩnh…  được rất nhiều người Việt Nam yêu thích; Michelangelo Uinarroti là người cùng với Leonardo de Vinci và Raffaello Santi tạo ra 3 tượng đài nghệ thuật vĩ đại nhất trong thời kỳ Phục hưng đỉnh cao. Ông nổi tiếng với những tác phẩm Cuộc chiến của những con nhân mã, Buổi phán xét cuối cùng, Tượng David, Nhà tiên tri Mose; Vincent Van Gogh được gọi là người điên thiên tài, được Picasso đánh giá là “người họa sĩ mà cuộc đời là mẫu mực đến tận lúc chết và kể cả cái chết”. Những bức tranh như Những người ăn khoai, Căn nhà màu vàng của Vincent, Bác sĩ Gachet, Hoa hướng dương… được người đời đánh giá là những bức tranh xuyên thấu lòng người; Leonardo da Vinci – Người khổng lồ trong hội họa thời Phục hưng; Đại danh họa Pablo Picasso – Nhà danh họa lớn nhất thế kỷ XX người Tây Ban Nha, mới 14 tuổi đã thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Barcelona với điểm ưu. Mọi người kể rằng, bài dự thi quy định làm trong hai tuần, vậy mà Picasso chỉ làm mất có vài giờ và đã được xếp hạng A, và mới học năm thứ nhất, ông đã có triển lãm đầu tiên tại quán cà phê Els Quatre Gats. Rồi những tác phẩm nổi tiếng lần lượt ra đời như Những cô gái ở Avignion, Gia đình người làm xiếc, Căn phòng xanh, Nhạc sĩ phong cầm; Gặp Từ Bi Hồng – Người cha của hội họa Trung Quốc hiện đại, bạn đọc sẽ được tiếp cận với một trong hai danh họa vĩ đại nhất của Trung Quốc thế kỷ XX và là một trong những danh họa lớn của thế giới. Họa sĩ Từ Bi Hồng nổi tiếng với những bức tranh ngựa – những con ngựa bất kham, hí vang, tung vó tự do trong không gian mênh mông. Những nét vẽ của ông mềm mại, bay bổng và đầy hồn phách và đã khiến người xem thực sự bị thuyết phục và ông đã mở triển lãm ở rất nhiều nước châu Âu như Pháp, Đức, Bỉ, Ý, Liên Xô… Và còn nhiều nữa những tên tuổi họa sĩ mà nhắc đến họ ai cũng cảm thấy ngưỡng mộ, kính phục và là tấm gương về lòng đam mê nghệ thuật, tinh thần làm việc hăng say cho tất cả chúng ta.

Cuốn sách sẽ mang lại cho giáo viên và các em học sinh những thông tin, tư liệu quý giá để nâng cao tầm hiểu biết của mình về lĩnh vực hội họa, đồng thời cũng góp phần tăng hiệu quả và hứng thú dạy và học và môn học mỹ thuật trong trường học. Giáo viên và học sinh có thể xem đây là cuốn sách tham khảo bổ ích không chỉ phục vụ cho giảng dạy và học tập mà còn khiến tâm hồn ta trở nên mềm mại, bay bổng và sâu sắc. Sách do Nhà Xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2009, khổ 13×20.5cm, trình bày đẹp mắt… là ấn phẩm mà bạn đọc nên có trong tủ sách gia đình mình.

Published in: on 10/05/2023 at 6:35 Chiều  Gửi bình luận  

Nhân đọc “Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam” tập 1 và 2

Đây là hai bài cảm nhận đã rất xưa, từng đăng trên tạp chí Sách và Thư viện trường học, nay gom lại vào đây để lưu trữ.

Bạn nghĩ sao nếu trên tay bạn lại có một tập sách dày với hàng trăm nét chữ của những người bạn hằng ngưỡng mộ và yêu quý? Hẳn bạn sẽ phải mỉm cười vui sướng hay ít ra cũng cảm thấy háo hức muốn tiếp tục lật giở những trang tiếp theo xem diễn tiến của nó ra sao. Tôi thì thực sự thích thú khi cầm trên tay cuốn sách đó. Như lúc này đây, khi gõ những dòng chữ này, cuốn sách trước mặt vẫn không thôi kể cho tôi nghe những mẩu chuyện nhỏ về từng gương mặt và từng nét chữ gợi lên ngút ngát một vùng ký ức đậm sâu. Đó chính là Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam – một cuốn sách không chỉ mang tính tra cứu, liệt kê mà gửi gắm trong đó là tiếng nói tri ân đến người nghệ sĩ đã sáng tạo ra những con chữ để đời.

Tác phẩm là sản phẩm hoàn hảo nhất được đưa đến tay bạn đọc. Thường bạn đọc chỉ chú trọng đến tác phẩm mà không mấy khi quan tâm nhiều đến người tạo ra chúng. Còn tác giả sau khi đã dày công tạo ra những đứa con tinh thần đầy nhiệt huyết thì chỉ luôn lặng lẽ đứng phía sau đón nhận hào hứng những phản hồi của độc giả. Người đọc ít khi có cơ hội được biết về tác giả của những tác phẩm mà họ yêu mến. Tuy cũng có nhiều cuốn sách viết về chân dung các tác giả, nhưng nhìn bao quát ta vẫn chưa thấy có cuốn sách nào tổng hợp và liệt kê được đầy đủ những gương mặt nhà văn giúp bạn đọc hình dung xuyên suốt chân dung những người đã tạo dựng và đang tiếp tục bồi đắp cho con đường dài rộng của văn chương đất Việt. Vì vậy Chân dung và Bút tích nhà văn Việt Nam hẳn đã đáp ứng được sự mong mỏi của nhiều người.

Đây là một công trình quý, được hai tác giả Trần Thanh Phương và Phan Thu Hương dày công tích lũy, lựa chọn trong vòng hơn 30 năm. Vốn là những người yêu thích văn học, ngay từ những năm học ở nhà trường, hai tác giả đã rất cảm phục và quyết tâm tìm kiếm, sưu tầm, lưu giữ những nét chữ, những hình ảnh của các nhà văn. Quá trình sưu tầm, biên soạn của hai tác giả gặp rất nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là khâu tiếp cận nhà văn và khâu tìm lại bản thảo, bút tích của những nhà văn quá cố. Nhưng các tác giả với sự tâm huyết của mình đã tạo nên những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa nhà văn và bạn đọc. Cái quý ở đây là tác giả lưu giữ được cả bút tích của các nhà văn đã mất nhằm góp phần phục dựng một cách đầy đủ nhất chân dung nhà văn Việt Nam. Như thế họ không chỉ làm công việc sưu tầm, cắt dán, lưu trữ mà còn giúp bạn đọc hình dung đầy đủ và chân thực nhất về các nhà văn, nếu không có cái tâm, cái tình với văn chương thì khó lòng lưu giữ được nhiều tư liệu có giá trị như thế cho bạn đọc qua bao biến đổi thời gian.

Tập 1:

Người ta thường nói “Xem mặt mà bắt hình dong”, từ trước đến nay chúng ta đều đã nghe tên các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng đến thân thuộc như Nam Cao, Chế Lan Viên, Bùi Giáng, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Phùng Quán… nhưng ít ai đã được gặp gỡ họ, dù chỉ là trong ảnh, người ta gọi đó là “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Nhưng giờ đây chúng ta có thể thấy chân dung họ, những nét chữ của họ để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những tác giả mà chúng ta yêu mến. Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam đã ký họa được cái thần không phải trên gương mặt mà trong tâm hồn các nhà văn. Họ đã đến thật gần với bạn đọc thông qua những bút tích diệu kỳ. Mỗi nét chữ đều mang trong mình một hồn vía chất chứa bao tâm sự buồn vui. Đọc chữ in, người ta chỉ có thể cảm nhận được nội dung tác phẩm, còn xem những nét bút tự tay tác giả viết thì ta có thể nắm bắt được những rung động từ đáy tâm tư họ. Tâm trạng khi đặt bút sẽ tạo nên nét bút đậm nhạt, run run, lo sợ hay cứng cỏi, vững chãi. Nhìn nét chữ, ta như cảm thấy được chạm vào quá khứ, chạm vào thời khắc tác giả đang thả hồn mình vào trang viết, chạm được vào những tâm tư của người nghệ sĩ. Nét chữ Nguyễn Bính nhỏ nhắn lành hiền. Nét chữ Thu Bồn phóng khoáng bay bổng. Nét chữ Tản Đà nghiêng nghiêng mềm mại. Nét chữ Phạm Hổ điềm đạm. Nét chữ Giang Nam thong thả. Nét chữ Nguyên Ngọc hun hút gió rừng. Nét chữ Viễn Phương như những chiếc lá non mới bật mầm trong vườn một sớm. Nét chữ Thâm Tâm rạp đều như sóng lúa. Nét chữ Hoài Thanh như những đốm nắng gieo từng giọt trên thềm nhà. Nét chữ Hoàng Trung Thông khoáng đạt hào khí. Nét chữ Võ Văn Trực ngay thẳng như cái tên của nhà văn. Chữ Hàn Mạc Tử ngẫu hứng như ánh trăng thu lúc khuất sau mây lúc lồ lộ rõ. Chữ Lê Anh Xuân mộc mạc yên bình. Nữ sĩ Mộng Tuyết lại khiến người đọc hình dung ra tư thế viết ấn mạnh ngòi bút vào trang giấy với sự chú trọng vào câu chữ hết sức tuyệt đối. Nguyễn Bùi Vợi lại mang đến một nét bút dẻo mềm như nét chữ cô gái đôi mươi viết thư cho người thương của mình. Trong khi đó Diệp Minh Tuyền lại cho ra một đôi hàng chữ to và rõ, mà mỗi con chữ giống như những quả táo xanh mới hái trên đồi. Nguyễn Đình Thi gửi trong nét bút của mình tâm hồn hào hoa của một người trai Hà Nội hừng hực lửa chiến đấu mà cũng đầy mộng mơ. Ma Văn Kháng dường như đem vào chữ của mình tiếng lá khô lạo xạo rụng trong vườn một chiều thu gió lớn. Nguyễn Thị Hồng Ngát dịu dàng, nữ tính với nét chữ mảnh mai. Nguyễn Trọng Tạo khua nét bút trên giấy hệt như mái chèo xao động trên dòng sông quê một đêm trăng sáng. Quách Tấn lại mang đến những nét bay nét múa sạch và đẹp, mướt mát như từng chiếc lá đào vừa kịp lớn trong một sớm mùa đông…

Không chỉ có nét chữ, những bức ảnh cũng là chứng nhân lịch sử rõ nét và chân thực còn lưu lại mãi mãi trong cuộc biến đổi của thời gian. Những tấm chân dung đã lưu lại nhiều khoảnh khắc quý giá, phác lên nền ký ức những đường nét của ánh sáng và hình khối. Khuôn mặt Tế Hanh gợi nhắc một thời trai trẻ đầy mộng mơ và hoài bão. Bức ảnh Hoàng Ngọc Phách một nửa đen mờ khiến người xem nhớ lại một “Tố Tâm” thời kỳ đầu khai sinh ra tiểu thuyết tâm lý. Nhà thơ Thâm Tâm đội chiếc mũ nồi trẻ trung quá khiến độc giả thấy ngỡ ngàng vì luôn tưởng tượng ra một thi sĩ trong “Tống biệt hành” đầy ưu tư, lưu luyến từ cuộc chia ly “đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Phạm Huy Thông với cặp kính và chiếc trán rộng lại khiến ta nhớ lại một Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học từng van bóng với “Tiếng địch sông Ô”. Nguyễn Bùi Vợi với điếu thuốc trên tay lại phác lên cho mình một nét phiêu du đặc trưng của người nghệ sĩ… Những bức ảnh đen trắng hay màu đều lưu lại trong nó những dấu ấn thời gian, khiến người xem không khỏi không rung động và ít nhiều hoài niệm về chân dung những ngòi bút đã để lại cho đời bao nỗi suy tư thao thức.

250 chân dung và bút tích các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học Việt Nam trong tập 1 cũng đã phần nào phác họa được chân dung những người đem ngòi bút làm đẹp cho đời. Cái hay, cái quý của của cuốn sách này là bên cạnh các nhà văn có tên tuổi còn tôn vinh một số gương mặt tuy chưa phải là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng họ sống và viết chân thành; có người chưa đi hết khát vọng văn chương đã phải ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Có những cây bút tên tuổi, đã từng cống hiến nhiều cho sự nghiệp văn học nước nhà và cũng có những cây bút trẻ đang góp phần cho nền văn học nước mình ngày một giàu có. Tác giả cố gắng hội đủ các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà lý luận phê bình và dịch giả. Đó là những gương mặt lớp trước, lớp sau kế tiếp nhau xây dựng mái nhà văn nghệ chung ở nước ta. Bút tích của từng người đã giúp bạn đọc hình dung về các nhà văn gần gũi, ấm áp và thật xúc động. Mục đích của cuốn sách không đặt chính ở công dụng tra cứu về thân thế, sự nghiệp nhà văn, mà còn là khơi gợi cảm xúc, sự đồng cảm và chia sẻ, thấu hiểu từ người đọc đến nhà văn, chứa đựng nhiều tình cảm ấm áp, trân trọng của thế hệ sau.

Với 516 trang dày dặn, khổ 20.5×29 cm nằm gọn trong bìa sách cứng cáp in bốn màu đẹp mắt, cuốn sách đã thể hiện tấm lòng tri ân với các nhà văn Việt Nam và sự tôn trọng với những người sở hữu bộ sưu tập. Những trang giấy trắng, nền hoa văn nền nã, cách trình bày ngăn nắp, cách phối màu nhịp nhàng cộng với những bức ảnh sống động, gợi nhắc càng tôn lên giá trị của cuốn sách không chỉ về nội dung mà cả hình thức mang tính nghệ thuật cao. Sách do Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành với mong muốn đem lại cho bạn đọc nhiều bất ngờ và tin tưởng. Tập 2 sẽ xuất bản trong một ngày không xa.

Tập 2:

Vậy là sau một thời gian dài chờ đợi, tập hai của Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam đã ra đời. Nếu tập một của năm 2008 đem lại cho độc giả sự bất ngờ, thì tập hai ra đời đáp ứng được lòng mong đợi của những ai đã quen thuộc với nội dung và mục tiêu của cuốn sách. Tập hai tiếp tục tiêu chí tác giả đề ra là đưa độc giả lại gần hơn những tên tuổi, gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà lý luận phê bình và dịch giả Việt Nam mà họ trân trọng, yêu mến. Mục đích của cuốn sách không đặt chính ở công dụng tra cứu về thân thế, sự nghiệp nhà văn, mà còn là khơi gợi cảm xúc, sự đồng cảm và chia sẻ, thấu hiểu từ người đọc đến nhà văn, chứa đựng nhiều tình cảm ấm áp, trân trọng của thế hệ sau.

Lật giở trang sách, ta thấy cách trình bày quen thuộc xuyên suốt từ tập một. Màu sắc trình bày, phối hợp nền nã khiến người đọc không cảm thấy nhức mắt, bị chi phối bởi cách sắp xếp rối rắm. Tất cả dường như khiêm nhường, nép mình lại để tôn lên từng chân dung tác giả. Phần giới thiệu về mỗi tác giả chủ yếu chia thành ba phần, gồm: Những tác phẩm chính đã xuất bản; Bài thơ hoặc đoạn thơ, đoạn văn tâm đắc; Lời nhận xét của đồng nghiệp. Ba phần tuy ngắn gọn những đã khắc họa được những nét cơ bản và đặc trưng của mỗi tác giả. Đặc biệt, phần làm nên dấu ấn chính là phần bút tích và chân dung các nhà văn. Nếu chỉ đơn thuần là giới thiệu thân thế, sự nghiệp thì bộ sách này cũng như bao cuốn sách khác, có khi còn sơ sài hơn, nhưng nhờ sự sống động và quý giá của bút tích, giá trị của nó đã nâng lên rất nhiều.

Đây là một công trình được hai tác giả Trần Thanh Phương và Phan Thu Hương dày công tích lũy. Trong quá trình sưu tầm, biên soạn, hai tác giả gặp rất nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là khâu tiếp cận nhà văn và khâu tìm lại bản thảo, bút tích của những nhà văn quá cố. Nhưng với sự tâm huyết của mình, Thanh Phương và Thu Hương đã tạo nên những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa các tác giả và bạn đọc. Cái quý ở đây là tác giả lưu giữ được cả bút tích của các nhà văn đã mất nhằm góp phần phục dựng một cách đầy đủ nhất chân dung nhà văn Việt Nam. Như thế họ không chỉ làm công việc sưu tầm, cắt dán, lưu trữ mà còn giúp bạn đọc hình dung đầy đủ và chân thực nhất về các nhà văn, nếu không có cái tâm, cái tình với văn chương thì khó lòng lưu giữ được nhiều tư liệu có giá trị như thế cho bạn đọc qua bao biến đổi thời gian.

Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam đã ký họa được cái thần không phải trên gương mặt mà trong tâm hồn các nhà văn. Họ đã đến thật gần với bạn đọc thông qua những bút tích diệu kỳ. Mỗi nét chữ đều mang trong mình một hồn vía chất chứa bao tâm sự buồn vui. Ví như khi nhin nét chữ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ta thấy hiện ra một chân dung đôn hậu với những tác phẩm lưu dấu trong lòng trẻ thơ như “Chú bé rắc rối”, “Kính vạn hoa”, “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”…, nụ cười ông cũng dí dỏm như những dòng chữ ông viết cho tuổi thơ. Rồi người đọc phải ấn tượng với bút tích của nhà thơ Vũ Hoàng Chương bay, phiêu như những vần thơ say nổi tiếng của mình. Nhà thơ Quang Dũng thì có gương mặt điển trai, nét nhìn cương trực, chữ viết nho nhỏ đầy khiêm tốn, mang nhiều tâm tư của một nhà thơ lính yêu con người và thiên nhiên. Người đọc cũng sẽ đồng cảm với nhà văn Võ Thị Xuân Hà, một gương mặt văn chương nữ đằm thắm, nhiều suy tư với nét chữ hiền dịu, nữ tính nhưng cũng không kém phần bay bổng như “bầy hươu nhảy múa” (tên một tác phẩm của nhà văn). Gương mặt của thi sĩ Bàng Bá Lân lại cho chúng ta một cảm nhận đặc biệt vì nét cá tính và mạnh mẽ, thế nhưng lời thơ ông lại được viết ra bình yên dưới ngòi bút nghiêng nghiêng “êm đềm sóng lượn trôi trên lúa” (trích trong “Trưa hè” của Bàng Bá Lân). Tổng Biên tập của báo “Hà Nội tân văn” (1939-1940) Vũ Ngọc Phan lại có nét cười gợi nhiều ký ức với chữ ký thoáng đãng và dài như một áng thơ hay. Nhà thơ Hồng Thanh Quang hẳn sẽ vui khi nhìn thấy bức hình của mình trong cuốn sách, bởi nó gợi nhắc về một thời tuổi trẻ đầy say mê mà như trong dòng chữ ông viết đẹp như họa thì “gương mặt như mầm cây/ vừa trồi lên khỏi đất” (trích trong “Vô chiêu” của Hồng Thanh Quang). Cách viết của nhà báo Phan Quang lại cho người đọc cảm nhận về một trí tuệ lớn, một tâm hồn bao la, như ông tâm sự “tôi là người làm báo, thỉnh thoảng lạc bước sang vườn văn”. Nhà thơ Hữu Ước lại in mình trong một bức ảnh quân phục, một chiến sĩ Công an có gương mặt đôn hậu mà cương nghị với nét chữ bay nghiêng như cỏ lau đổ xôn xao trong một chiều gió, mỗi câu thơ của ông đều cho ta cảm giác sống động: “Tí tách giọt mưa thu/ Xối xả trận mưa rào/ Ầm ào mùa gió bão/ Cái nắng hè như chảo mỡ đang sôi/ Lần lượt giọt thời gian đi qua/ Năm này, năm khác” (trích trong “Giọt thời gian” của Hữu Ước). Nhà thơ Huy Trụ lại có bức ảnh đẹp đến ngỡ ngàng về cách tạo hình và sự ấn tượng của đôi mắt biết nói. Chữ viết của ông đẹp như những cánh lá vàng ươm mùa thu chao phất phơ trong gió, cũng như những câu thơ đầy chất tự sự của ông còn đọng mãi trong lòng người yêu thơ: “Sau bao chìm lấp, nổi nênh/ Sóng xô bạc mặt, thác vênh lòng thuyền/ Chỉ còn trong vạt áo em/ Để tôi tìm lại một miền riêng tôi” (Trích trong “Miền riêng tôi” của Huy Trụ). Và còn nhiều nữa những gương mặt, những bút tích để lại cho ta nhiều cảm nhận đẹp và khác lạ như Trần Lê Văn, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Thị Minh Ngọc,Việt Phương, Lê Thị Kim, Kiên Giang, Dũng Hà… mà bạn đọc có thể đọc, xem và có những cảm nhận cho riêng mình.

211 chân dung và bút tích các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học Việt Nam trong tập 2 (tiếp nối 250 chân dung trong tập 1) đã phác họa được chân dung những người đem ngòi bút làm đẹp cho đời. Cái hay, cái quý của của cuốn sách này là bên cạnh các nhà văn có tên tuổi còn tôn vinh một số gương mặt tuy chưa phải là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng họ sống và viết chân thành và hết lòng vì sự nghiệp chung. Tác giả cố gắng hội đủ các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà lý luận phê bình và dịch giả. Đó là những gương mặt lớp trước, lớp sau kế tiếp nhau xây dựng mái nhà văn nghệ chung ở nước ta. Bút tích của từng người đã giúp bạn đọc hình dung về các nhà văn gần gũi, ấm áp và thật xúc động. Với 427 trang dày dặn, khổ 20.5×29 cm nằm gọn trong bìa sách cứng cáp in bốn màu đẹp mắt, cuốn sách đã thể hiện tấm lòng tri ân với các nhà văn Việt Nam và sự tôn trọng với những người sở hữu bộ sưu tập. Những trang giấy trắng, nền hoa văn nền nã, cách trình bày ngăn nắp, cách phối màu nhịp nhàng cộng với những bức ảnh sống động, gợi nhắc càng tôn lên giá trị của cuốn sách không chỉ về nội dung mà cả hình thức mang tính nghệ thuật cao. Sách do Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành, có sự góp mặt của Công ty cổ phần Sách dịch và Từ điển Giáo dục cùng nhiều nhà văn, gia đình các nhà văn, thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp vì yêu mến công việc của tác giả đã gửi tới những tư liệu quý cho cuốn sách.

Hai tập sách trên đã thực sự đem lại cho bạn đọc nhiều bất ngờ và tin tưởng. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu hiểu biết về các nhà văn Việt Nam của độc giả, mà còn đem lại cho chúng ta sự cảm nhận gần gũi, chân thật về những chân dung chúng ta yêu mến. Công trình 30 năm của hai tác giả Trần Phương và Phan Thu Hương đã tạo nên một sản phẩm không giống với các tác phẩm viết về các tác gia văn học thường thấy, vì nó không chỉ là tư liệu mà nó còn là sự sống động của những cuộc đời. Như trong lời Nhà xuất bản đã viết “Làm sách phải tìm được sự khác biệt. Chỉ có sự khác biệt mới tạo nên giá trị cuốn sách”, Chân dung và bút tích nhà văn Việt Nam đã làm được điều đó và xứng đáng là một trong những cuốn sách lưu dấu cuộc đời.

Ảnh: Bích Ngân

Published in: on 10/05/2023 at 6:31 Chiều  Gửi bình luận  

Muôn nẻo đường tơ

Trong các loại vải may trang phục, lụa tơ tằm luôn được xếp hàng đầu bởi nó có nguồn gốc tự nhiên, được dệt bằng những sợi tơ do chính con tằm nhả ra.

Tương truyền, từ thời Vua Hùng, dân ta đã biết trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Qua đôi bàn tay khéo léo của những người thợ Việt, biết bao dải lụa mềm mượt óng ả đã ra đời và tỏa đi muôn nẻo. Xưa, lụa tơ tằm chủ yếu chỉ dành cho vua chúa hoặc những gia đình khá giả bởi giá thành cao. Nay, lụa được sử dụng phổ biến hơn, song chúng không bị nhòa lẫn bởi đặc thù chất liệu là sợi tơ tự nhiên, hút ẩm tốt, mỏng nhẹ, đem đến cho người mặc thần thái thanh tao và sang trọng. Để làm nên một tấm lụa hoàn chỉnh, người thợ phải trải qua biết bao công đoạn, từ trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, lấy tơ, nhập tơ, guồng tơ, đánh ống, mắc cửi, nối cửi, dệt rồi nhuộm… Và phía sau từng công đoạn ấy là bao công sức, tâm huyết của người làm nghề mà không phải ai cũng cảm nhận được.

Để nuôi được những con tằm nhả ra tơ bền đẹp, người thợ phải cho tằm ăn lá dâu vì đây là loại thức ăn tằm hấp thụ tốt nhất. Cây dâu đạt tiêu chuẩn phải được trồng ở vùng phù sa màu mỡ, đất có độ mặn thấp. Lá dâu khi cho tằm ăn tuy không rửa nhưng phải đảm bảo sạch, không có mùi thuốc trừ sâu. Trong vòng đời kéo dài khoảng 25 – 30 ngày, tằm có 5 giai đoạn phát triển và tùy theo độ tuổi của tằm, người thợ sẽ cho tằm ăn lá theo cách phù hợp. Khi tằm còn bé thì cho ăn lá non và thái nhỏ, lúc tằm lớn thì để nguyên lá và cho tằm ăn được cả lá già. Việc nuôi tằm quyết định trực tiếp đến chất lượng sợi tơ, vì vậy người thợ phải đặc biệt chú trọng để đảm bảo tằm lớn khỏe và đầy đủ dinh dưỡng. Tằm hợp với khí hậu mát mẻ nên thường được nuôi vào mùa thu và mùa xuân. Mỗi con tằm có quy trình lột xác bốn lần. Sau khi lột xác, tằm ăn rất khỏe để chuẩn bị cho giai đoạn tạo kén, người thợ phải tiếp dâu liên tục để đáp ứng đủ nhu cầu “ăn rỗi” của tằm. Dân gian có câu “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng” vì người thợ luôn phải túc trực quanh nong tằm để đảm bảo tằm được chăm sóc tốt nhất. Sau khoảng sáu ngày ăn liên tục, tằm phát triển đến kích thước tối đa thì ngừng ăn, lúc thân tròn bóng và dần trở nên trong suốt là lúc tằm tìm nơi làm tổ. Người thợ phải nhanh tay đưa tằm lên né để tằm đóng kén.

Né là tấm phên đan bằng thân cây đay hoặc các thanh tre, thanh gỗ tạo thành các lỗ hổng hình vuông hoặc hình chữ nhật. Người thợ sẽ nhặt tằm chín từ nong sang né và tằm bắt đầu giai đoạn nhả tơ kéo dài từ 3 – 8 ngày. Trong tuyến nước bọt của tằm có Protein nên khi tằm nhà tơ ra không khí chúng sẽ khô và tạo thành các sợi tơ dai bền. Tằm nhả tơ từ ngoài vào trong, phần tơ được nhả ban đầu bao bên ngoài lá áo kén, sau đó tằm sẽ chạy quanh bên trong chiếc áo kén và nhả tơ cho đến khi đầy kén. Giai đoạn này, né được đưa ra ngoài ánh nắng nhẹ, giúp cho kén được khô và có màu vàng óng. Sau khi gỡ kén khỏi né, người thợ sẽ dàn đều kén trên nong để loại bỏ những kén không đạt chất lượng. Kén tằm phải mẩy, nhiều tơ, ít áo kén, dễ kéo tơ và đồng đều nhau. Tiếp đến là quy trình ươm tơ để kéo sợi tơ từ kén tằm thành sợi tơ tằm. Người thợ cho kén tằm vào đảo trong nồi nước sôi để làm cho lớp keo tơ Secirine tan ra giúp kén mềm, dễ rút sợi. Kén tằm được người thợ khỏa nước liên tục và cuốn vào guồng kéo sợi quay thành từng bó tơ dài rồi phơi lên sào cho khô. Sau khi phơi xong, tơ sẽ được cuốn vào những ống suốt để chuẩn bị cho quy trình dệt. Tùy theo chất lượng tơ, cách xử lý sợi tơ và cách xoắn sợi tơ, ta sẽ có những loại tơ khác nhau như sợi mốt, sợi mành, sợi đũi, sợi đơn, sợi khổ, sợi xoắn… rồi tùy theo cách dệt lại cho ra những loại vải khác nhau.

Theo phương pháp truyền thống, vải lụa được dệt bằng khung cửi. Người thợ dệt phải có tay nghề khéo léo, tỉ mỉ kiên nhẫn thì mới dệt được tấm vải ưng ý. Kiểu dệt cổ truyền là phối hợp các loại sợi dọc và ngang bằng cách tay đưa, chân dậm cùng lúc sao cho sợi dọc và sợi ngang khít với nhau với độ dày vừa phải. Các sản phẩm dệt ra từ tơ tằm rất đa dạng như gấm, vân, lĩnh, đoạn, vóc, the, sa, xuyến, băng, cấp, lượt, lương, lụa, là, nhiễu, kỳ cầu, đũi, sồi, nái… nhưng lụa vẫn là sản phẩm chính, được ưa dùng nhất. Những vuông lụa dệt xong chỉ có màu trắng ngà hay vàng mỡ gà, muốn nhuộm màu thì phải qua khâu truội tơ để gột sạch lớp keo tằm cho vải bám màu. Đầu tiên phải ngâm lụa mộc trong nước của lá trà, trầu không, bạch đàn… để vải giảm nhăn và được kháng khuẩn. Sau đó, người thợ sử dụng các nguyên liệu tự nhiên như hột rành rành, lá bàng, than, gạch, mặc nưa… để nhuộm các màu theo ý muốn. Ví dụ muốn nhuộm màu nâu thì dùng củ nâu, màu thâm thì ngâm nước bùn, nâu đỏ thì dùng sâu cánh kiến, tím đỏ thì dùng củ dền… Ngày nay, nhiều nơi đã sử dụng máy dệt để cho ra sản lượng lớn và nhuộm vải bằng hóa chất để vải có màu sắc nét và khó phai hơn. Tuy nhiên nhiều người vẫn trân quý cách làm truyền thống nên vẫn tìm đến những nơi dệt cửi, nhuộm nguyên liệu tự nhiên để có được những tấm lụa màu sắc mộc mạc gần gũi.

Để có được những sản phẩm như trên, không thể không nhắc đến các làng nghề truyền thống có tiếng như Vạn Phúc, Phùng Xá (Hà Nội), Nha Xá (Hà Nam), Cổ Chất (Nam Định), Duy Duyên, Mã Châu (Quảng Nam), Tân Châu (An Giang), Bảo Lộc (Lâm Đồng)… Bạn muốn ghé thăm các làng lụa hãy đến Cổ Chất xem người dân ươm tơ, đến Nha Xá tận hưởng vẻ đẹp của ngôi làng có truyền thống dệt lụa 600 năm, đến Phùng Xá nằm bên bờ sông Đáy rộn tiếng thoi đưa và xem người dân dệt lụa từ tơ sen độc đáo. Và điểm dừng chân đáng nhớ sẽ là làng lụa Vạn Phúc nằm bên con sông Nhuệ, được xem như cái nôi của nghề sản xuất tơ lụa xứ Bắc với áo lụa Hà Đông đã trở thành biểu tượng tao nhã của người Thăng Long Kẻ chợ. Về miền Trung, bạn hãy tìm làng lụa Mã Châu để được sở hữu những dải lụa được dệt từ những sợi tơ từ con tằm ăn lá cây dâu trồng nơi phù sa của ba con sông Thu Bồn, Vu Gia và Bà Rén. Cuối cùng, không thể quên thủ phủ tơ tằm Bảo Lộc, nơi chiếm 70% giá trị sản lượng tơ tằm cả nước với quy trình sản xuất hiệu quả nhờ điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp.

Qua bao năm tháng, trải bao nắng mưa, những sợi tơ tằm vẫn miệt mài dệt nên giấc mơ đẹp đẽ đậm đà bản sắc Việt.

https://heritagevietnamairlines.com/muon-neo-duong-to/

Published in: on 14/04/2023 at 3:30 Sáng  Comments (8)  

Về hội làng Triều Khúc xem múa bồng

Triều Khúc là một ngôi làng cổ ven đô Hà Nội (thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì) nổi tiếng với cụm di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia gồm đình, chùa, đền, lăng, miếu. Nơi đây còn là làng nghề truyền thống chuyên làm nón quai thao, các sản phẩm từ lông gà và may thêu đồ thờ tự. Nhưng độc đáo và đặc sắc hơn cả chính là hội làng Triều Khúc đã được Nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2019. Cứ vào ngày mùng 9 đến 12 tháng giêng âm lịch hàng năm, người dân lại tổ chức lễ hội tưởng nhớ vua Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương lên ngôi (lễ Tức vị) và đón chào một năm mới với hy vọng gặp nhiều may mắn, an vui.

Lễ hội làng Triều Khúc bắt đầu bằng phần lễ với các lễ dâng hương, lễ rước sắc, lễ nhập tịch và cuối cùng là tế lễ. Theo đó, lễ rước long bào của Hoàng đế Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Đại diễn ra rất trang nghiêm với đoàn rước là những thanh niên khỏe mạnh vừa rước kiệu vừa ngoảnh mặt vào nhau. Trong lễ rước kiệu, dân làng sẽ chuẩn bị các mâm lễ hoa quả và đèn nhang để dâng lên tỏ lòng thành kính với vua Phùng Hưng. Đoàn rước đi một vòng quanh ao chùa Triều Khúc rồi về đình Đại. Khi đám rước đến nơi, các bô lão sẽ đọc văn tế, mở hòm sắt lấy bút và chính thức bắt đầu cuộc tế lễ. Đồng thời khi ấy bên ngoài cũng bắt đầu phần hội với các điệu múa rộn ràng trong không gian tràn ngập sắc màu của váy áo và cờ phướn. Nào là chạy cờ, múa rồng, múa lân, múa sênh và được mong chờ nhất chính là múa bồng.

Múa bồng có tên dân gian là “Con đĩ đánh bồng”, là điểm nhấn của lễ hội và là niềm tự hào của bà con dân làng Triều Khúc. Tương truyền, vào thế kỷ thứ 8, lúc Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng đánh đuổi giặc Đường, ông lại tổ chức cho các binh sĩ giả gái, đeo trống để múa hát nhằm khích lệ tinh thần trước khi vào trận chiến hay khi ăn mừng thắng lợi. Thấy các binh lính giả gái múa bồng rất dẻo giữa tiếng reo hò mừng vui vang rội của nghĩa quân và dân làng, vua Phùng Hưng gọi vui là “con đĩ” (từ “đĩ” khi ấy dùng để chỉ người con trai giả gái chứ không mang nghĩa tiêu cực nào). Nét đặc biệt của điệu múa này ở chỗ vũ công là những nam thanh niên chưa lập gia đình, có diện mạo ưa nhìn, xuất thân từ các gia đình gia giáo trong làng. Các chàng trai được tô son thoa phấn, môi đỏ má hồng, mặc váy đụp hay quần nhiễu đen, vai khoác tấm lụa đào thêu họa tiết công phượng có viền tua rua rủ xuống, đầu chít khăn mỏ quạ. Trước bụng mỗi người là chiếc trống bồng nhỏ sơn màu đỏ và được cố định bằng dải lụa đỏ buộc khéo léo phía sau lưng.

Tuy chỉ đơn giản là các điệu múa xoay tròn, vươn tay, gập chân, dựa lưng, úp mặt vào ngực nhau, nhưng nhờ có dàn nhạc tung hứng, tiếng trống vỗ hào sảng, điệu múa lả lơi nhịp nhàng, ánh mắt biểu cảm lúng liếng… nên xung quanh đều thích thú và cổ vũ vô cùng hào hứng. Hình ảnh những bộ váy áo sặc sỡ tung bay theo từng cú nhảy thuần thục đập trống đã tạo nên ấn tượng thị giác rất ấn tượng. Khi các chàng trai xoay người, những dải lụa màu sắc rực rỡ xoay xoay theo, tạo thành những vòng tròn ảo diệu đẹp mắt. Từng cặp múa cùng nhau tạo nên các bước đi theo hình vòng tròn rồi xoay người ngược chiều kim đồng hồ với tiết tấu nhịp nhàng rồi dồn dập theo nhịp thanh la và trống đánh. Những bước chân nhún đều, lúc vươn tay khi gập gối rồi lại xoay vòng thật điêu luyện và dẻo dai. Mặc dù giả gái với các động tác múa mềm mại, khéo léo, nhưng ở họ vẫn toát lên phong thái khoáng đạt của đấng nam nhi và tinh thần thượng võ của người lính trận.

Theo dân làng Triều Khúc, những người có công lớn để duy trì điệu múa này là cố nghệ nhân Bùi Văn Tốt, nghệ nhân Bùi Văn Lục, nghệ nhân Triệu Đình Vạn và nghệ nhân Triệu Đình Hồng. Tâm huyết với điệu múa cổ, bao năm qua ông Triệu Đình Hồn thuyết phục nhiều thanh niên trong làng tham gia học múa và biểu diễn để bảo tồn điệu múa của ông cha. Năm 2010, ông được trao tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”, tới năm 2015 Câu lạc bộ Múa bồng do ông làm chủ nhiệm đã được Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội chính thức công nhận và bảo trợ. Và điệu múa ấy giờ đây không chỉ diễn ra trong phạm vi thôn xã mà đã hiện diện ở nhiều vùng miền, nhiều không gian lễ hội trên cả nước cũng như tham gia vào ngày hội văn hoá các dân tộc Việt Nam. Bởi dù qua bao năm tháng, người dân cũng như du khách thập phương vẫn luôn yêu thích, hào hứng đón chờ được xem điệu múa cổ đầy cuốn hút của đất Thăng Long Kẻ Chợ này.

Có thể nói, hội làng Triều Khúc và điệu múa “con đi đánh bồng” là phần hồn, là niềm tự hào và điểm tựa tinh thần thiêng liêng của người dân Triều Khúc. Để mỗi khi xuân về, ai cũng cảm thấy lòng phấn chấn hơn vì được hòa vào sự náo nức tưng bừng của lễ hội. Nhất là các cụ ông cụ bà, họ như trẻ lại khi được diện quần lụa, áo then áo gấm, hài thêu trong không gian thấm đẫm tinh thần Việt. Có lẽ trong đầu những người già đã đi qua bao năm tháng hội hè từ thuở thiếu thời đến khi lưng còng tóc bạc, lễ hội mà họ đang hòa mình vào ở thời điểm này còn là hiện thân của cả tuổi thơ, tuổi trẻ đã trôi qua trong quá khứ. Bởi vậy mà ý nghĩa sâu xa của lễ hội ấy không chỉ là ôn lại truyền thống của một ngôi làng hay tạo ra bầu không khí vui tươi đoàn kết, mà sâu xa hơn, nó làm tươi mới lại phần ký ức quý giá, lấp lánh, đẹp đẽ và rất riêng trong mỗi người.

https://heritagevietnamairlines.com/ve-hoi-lang-trieu-khuc-xem-mua-bong/

Published in: on 22/03/2023 at 7:11 Chiều  Gửi bình luận  

Nhìn lại 2022 – Bài đăng báo

Góp phần hoàn thiện bức tranh lao động của mình trong năm 2022 có cả đôi nét phác thảo từ những bài viết được đăng trên báo, tạp chí. Tổng hợp lại để lưu giữ.

Published in: on 27/12/2022 at 5:40 Chiều  Comments (2)  

Hồn biển miền Trung

https://heritagevietnamairlines.com/hon-bien-mien-trung/

Đến biển miền Trung một ngày đầy nắng, ấn tượng trong tôi về nơi đây không chỉ là màu trắng của mây, màu xanh của biển, màu lấp lánh của những nụ cười… mà còn là màu khỏe khoắn của những chiếc thuyền thúng đang thênh thang cưỡi sóng hay nằm thảnh thơi phơi mình trên bãi cát thong dong.

Thuyền thúng là phương tiện đánh bắt thô sơ gắn liền với đời sống của những ngư dân miền Trung thuần hậu. Từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, tới Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Bình Định, Nha Trang, Bình Thuận… đâu đâu cũng thấy sự hiện diện của những chiếc thuyền thúng mộc mạc. Ngư dân các vùng biển này sử dụng thuyền thúng để đánh bắt gần bờ như câu mực, lặn sò và cả kéo lưới. Song tùy địa phương mà thuyền thúng được sử dụng theo những mục đích khác nhau. Bình Thuận thường để câu tôm và mực, Lý Sơn thì bắt sò, còn Phú Yên thì đánh bắt cá. Ngoài ra, thuyền thúng còn được theo các tàu thuyền lớn ra khơi xa phục vụ nhu cầu vận chuyển con người, hàng hóa hoặc cứu sinh trong các trường hợp khẩn cấp.

Trong các tour du lịch sinh thái miền sông nước bên những rặng dừa soi bóng, hay lênh đênh giữa bao la biển rộng ngắm san hô, thuyền thúng chính là phương tiện hữu hiệu giúp du khách có thể thong thả để tận hưởng trọn vẹn vùng không gian tươi đẹp ấy. Chưa kể thuyền thúng còn góp mặt trong các lễ hội đua thuyền tại các hội làng địa phương, tạo nên tinh thần hứng khởi và gắn kết, làm giàu truyền thống của người dân miền biển ngày ngày chăm chỉ ra khơi, mang theo ước mơ và khát vọng về một cuộc sống sung túc, yên bình.

Ưu điểm của chiếc thuyền thúng là gọn nhẹ nên dễ dàng di chuyển xuống nước hơn so với các con thuyền thân dài. Thuyền cũng hiếm khi bị lật úp bởi có khả năng cưỡi sóng thay vì cắt ngang mặt nước như các loại thuyền khác. Thuyền có hai kích cỡ, loại lớn có đường kính 2,2m, loại nhỏ có đường kính 1,8m. Đan thuyền thúng đòi hỏi người thợ phải có đôi bàn tay khéo léo, có sức làm việc bền bỉ dẻo dai với kỹ thuật và kinh nghiệm tốt. Quan trọng nữa, người thợ phải làm chúng với cả tâm huyết và sự cẩn trọng, bởi chỉ cần một sơ suất nhỏ, thuyền bị thấm nước hoặc bị đánh úp, sẽ dẫn đến những hậu quả không lường.

Để làm một chiếc thuyền thúng phải cần tới 5-7 cây tre loại đặc, không non quá cũng không già quá và chỉ dùng cật từ nửa thân tre trở xuống. Tre sau khi cạo sạch lớp áo xanh bên ngoài sẽ được chẻ thành những nan nhỏ theo kích thước bằng nhau đã định sẵn, sau đó vót bỏ ruột chỉ lấy cật và đem phơi chừng 4-5 ngày cho khô rồi mới bắt đầu đan. Nan vót cần đều tay để khi đan các dải tre đều đặn, kín khít, không bị dày mỏng lộ cộ. Ở khâu tạo hình thuyền, người thợ cần kiểm tra và định mẫu rồi mới cắt, gọt nan cho sát mép để đặt vành (còn gọi là lận vành). Vành được làm từ cật tre tốt sẽ giúp thuyền giữ thăng bằng tốt, dây cột vành phải là loại dây cước dai bền để chịu được nắng mưa và nước sông, nước biển. Kết thúc khâu đặt vành, thuyền sẽ được mang ra phơi nắng cho đến khi cứng cáp rồi đem đi quét phân bò. Phân bò tươi sau khi đánh nhuyễn sẽ được người thợ trát vào các khe nan để lấp đầy các kẻ hở, tạo thành lớp bảo vệ chống thấm cho thuyền. Sau khi phơi khô, thuyền tiếp tục được quét lớp dầu rái hay nhựa đường hoặc dầu composite để thuyền thêm cứng cáp và duy trì tuổi thọ.

Song cũng có nơi không tạo hình thuyền thúng trên cạn mà tạo hình dưới hố, gọi là làm thúng chai. Người thợ đào hố tương đương với kích cỡ chiếc thuyền, sau đó họ đặt mê đã đan xuống hố để tạo hình. Tạo hình đến đâu thì dùng cát xung quanh tấn xuống đến đó cho đến khi thuyền làm hoàn chỉnh. Cách làm này mất thời gian và công sức hơn nhưng lại cho ra những chiếc thuyền có kỹ thuật cao và độ bền lớn.

Tuy nhiên những năm gần đây, chiếc thuyền thúng đã có phiên bản mới hơn, đó là thuyền thúng composite. Loại thuyền này là được sản xuất bằng vật liệu composite cốt sợi thủy tinh nên bền và nhẹ, chịu nước tốt, không bị ăn mòn, không cần bảo dưỡng. Thuyền có đường kính đáy nhỏ hơn đường kính miệng thúng giúp giảm lắc, khó lật và giảm lực cản khi di chuyển, có thể chở nhiều người hơn thuyền thúng đan bằng tre. Khi gặp sóng lớn, ngư dân có thể cho nước vào đầy thuyền thúng composite và nằm bên trong mà không lo thuyền bị chìm. Khi bị va đập vỡ, các mảnh của thuyền thúng composite nổi trên nước và có thể dùng làm vật cứu hộ. Nhiều nơi thuyền thúng còn được lắp cánh buồm hoặc động cơ để tiết kiệm sức người và giúp thuyền đi xa hơn. Có cả những chiếc thuyền lắp kính trọng lực dưới đáy phục vụ du khách ngắm san hô và các loài hải sản dưới đáy biển.

Có thể nói, chiếc thuyền thúng không chỉ là phương tiện mưu sinh, mà còn là vùng ký ức ẩn chứa vui buồn, chứng kiến bao thăng trầm đời người theo dặm dài năm tháng. Chúng còn là minh chứng cho khát vọng mãnh liệt và sức sống trường tồn của người dân biển miền Trung giữa nắng gió khắc nghiệt. Và cứ thế, những chiếc thuyền thúng sắc màu tươi vui cứ dập dềnh giữa biển khơi như từng đốm nắng xôn xao thắp lên bao hy vọng về cuộc sống ấm no và hạnh phúc.

https://heritagevietnamairlines.com/hon-bien-mien-trung/

Published in: on 16/08/2022 at 11:22 Sáng  Comments (2)  

Núi Thủng Cao Bằng

https://heritagevietnamairlines.com/tao-tac-ky-dieu-cua-thien-nhien/

Ở tỉnh Cao Bằng, có nhiều ngọn núi Thủng độc đáo nằm ẩn mình trong những thung lũng xanh. Núi Thủng còn có tên là núi Mắt Thần, tiếng Tày là “Phja Piót”, nghĩa là núi bị thủng một lỗ xuyên từ bên này sang bên kia.

Các ngọn núi Thủng ở huyện Hòa An, Quảng Hòa, Trùng Khánh… đều nằm trong công viên địa chất Cao Bằng, hình thành và phát triển trong quá trình kiến tạo địa chất hàng trăm triệu năm với địa hình đá vôi dạng tháp, dạng nón.

Các nhà địa chất đã tìm thấy những hóa thạch cổ sinh như Huệ biển, Trùng thoi… trong đá vôi và các mặt cắt thể hiện dấu ấn trong quá trình đứt gãy của đá vôi hệ tầng Bắc Sơn. Người ta gọi là núi Thủng hay núi Mắt thần là bởi trên đỉnh núi có một khoang rỗng rất lớn, như bị ai đó khoan thủng và cũng giống một con mắt núi ẩn chức trong đó những câu chuyện thần bí. Nơi khoang núi ấy, quanh năm cỏ cây tươi tốt, từng vệt nắng xuyên qua thẳng tắp sáng lấp lánh và mây bay quẩn quanh khiến đất và trời như nhòa lẫn, không còn ranh giới.

Có những ngọn núi thủng nằm cách không xa quần thể hồ Thang Hen với 36 hồ nước ngọt tự nhiên thông nhau bởi các hang động ngầm dưới lòng đất. Chính điều này đã khiến hồ Thang Hen có hiện tượng mực nước thay đổi theo mùa, thậm chí theo ngày khi có lúc nước rút rất đột ngột chỉ trong vài tiếng. Đây được xem là hồ nước ngọt trên núi cao và đẹp nhất ở Việt Nam, được bao quanh bởi những tán rừng xum xuê xen lẫn những mỏm đá tai mèo màu xám. Ghé thăm Thang Hen vào mùa xuân bạn sẽ được ngắm cây cối, cảnh vật rạng rỡ với trăm hoa rực rỡ, rất thích hợp để ngồi thuyền du ngoạn, ngắm cảnh. Nếu đến nơi đây vào mùa hè, bạn sẽ được hưởng bầu không khí trong lành với cây cối hai bên hồ trổ lá xanh tươi. Vào mùa mưa, nước hồ dâng cao do mưa nhiều tạo thành chuỗi 36 hồ nước mênh mông trải dài. Mặt hồ như tấm gương trong cho những ngọn núi xám cúi mình soi bóng. Vịt bơi thảnh thơi giữa dòng nước lặng và trên bờ trâu bò thong dong gặm cỏ. Vào mùa khô, hai bên hồ vàng ươm sắc lá và càng nên thơ hơn khi hoa dã quỳ đã bung mình nở rộ. Lúc này, nước hồ cạn đi để lại lớp bùn non làm nền cho cỏ mọc lún phún xanh biếc trên mặt hồ. Nước rút đến mức người dân nơi đây còn lội xuống lòng hồ bắt được rất nhiều cá. Trong quần thể hồ Thang Hen còn có thác Nặm Trá rộng 15 ha. Thác không cao nhưng có rất nhiều dòng chảy uốn lượn xen giữa những mỏm đá cao thấp lô nhô, dào dạt tuôn về mặt hồ Nậm Trá như những dải lụa mềm dài vô tận.

Du khách đến các núi Thủng có thể chọn nghỉ dưỡng ở khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen trong những nếp nhà sàn truyền thống. Hoặc thú vị và trải nghiệm hơn nữa, bạn hãy đem theo lều bạt để cắm trại trong thung lũng bình yên này. Chỉ cần một chiếc trại gọn nhẹ với đôi ba vật dụng cần thiết là bạn đã có một ngày vui đáng nhớ ở đây rồi. Nếu muốn ngủ lại, bạn cần chuẩn bị thêm chăn mỏng và gối cùng đồ ăn nhanh hoặc bếp nướng. Ban ngày, bạn đi thăm thú cảnh sắc núi non sông hồ và chụp những bức ảnh lưu niệm tuyệt đẹp. Thú vị hơn, bạn có thể thả mình trên chiếc thuyền độc mộc xuôi dòng nước lặng ở hồ lớn Thang Hen, Nặm Trá hay các hồ nhỏ trong quần thể hồ nơi đây như Thang Vạt, Thang Loỏng, Nà Ma, … để khám phá sâu hơn hệ thống sông hồ đa dạng. Khi màn đêm buông xuống, bạn sẽ được ngắm trăng sao lấp lánh trên bầu trời huyền bí, quây quần kể nhau nghe những câu chuyện truyền thuyết về vùng đất này, rồi dần chìm vào giấc ngủ cùng núi rừng yên ả. Khi được hoàn toàn thả lỏng giữa không gian yên tĩnh hoang sơ, trong bạn sẽ tràn ngập cảm giác an yên tự tại bởi con người như được tan lẫn cùng thiên nhiên.

Ngọn núi Thủng được nhiều du khách biết đến nhất nằm ở xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa. Muốn khám phá đời sống của người dân bản địa, từ núi Thủng bạn đi bộ khoảng 15 phút sẽ đến xóm Bản Danh nơi có người Tày đang sinh sống. Đi qua những hàng rào đá đặc trưng, bạn sẽ lạc vào một xóm bản mộc mạc với những nếp nhà sàn đơn sơ gần gũi. Người dân nơi đây quanh năm sống đời bình dị, chăm chỉ trồng lúa, trồng ngô và chăn nuôi gia súc. Đi sâu xuống phía dưới thung lũng, bạn sẽ thấy những ngôi nhà cổ với kiến trúc bằng đá lẩn khuất dưới những tán cây rừng đã vương bụi thời gian. Thấp thoáng phía xa là các loài cây báng, nghiến hay trám lúc lỉu quả trắng, quả đen vị bùi thơm ngậy. Khi bụng đã đói, bạn hãy tìm ăn những món đặc sản như cá chiên sông Gâm, cá tôm hồ Thang Hen, nhộng ong xào măng chua, rau dạ hiến, xôi trám, miến dong đen, lạp xưởng hun khói, rượu ngô men, mèn mén, ngô nếp…. để tận hưởng trọn vẹn cả thiên nhiên lẫn ẩm thực nơi này.

Giữa đất trời bao la, đứng trên đỉnh Mắt thần lộng gió, nơi chiếc cổng vòm rêu cỏ xanh um với mây trôi bảng lảng trên đầu, ta có thể ngắm cả một khoảng trời xanh nhấp nhô bóng núi và thảm cỏ xanh, mặt nước trôi êm phía dưới. Thấp thoáng từng cánh chim chấp chới bay về tổ bên những lũy tre tươi tốt tỏa vồng. Bãi ngô rợp lá xào xạc. Đồng lúa chín đang vào mùa. Hoàng hôn buông xuống, những bóng người gánh lúa, gánh rơm về bản, trong mắt họ ánh lên nụ cười dung dị bình yên.

Published in: on 22/07/2022 at 4:40 Chiều  Gửi bình luận  

Biểu tượng nghệ thuật của người Dao

Mẫu Sơn (thuộc huyện Cao Lộc và Lộc Bình của tỉnh Lạng Sơn) là vùng núi cao nhất của Lạng Sơn cũng như khu vực Đông Bắc Việt Nam. Trên đỉnh núi cây cỏ xanh tươi này có nhiều tộc người đang sinh sống, trong đó tộc người Dao chiếm đa số. Dân tộc Dao là dân tộc có bản sắc văn hóa và phong tục tập quán độc đáo, đặc trưng từ nếp ăn, nếp ở, nếp mặc đến tín ngưỡng, lễ hội. Trong đó trang phục là điểm nhấn thú vị đáng để ta tìm hiểu và khám phá.

Trang phục của người Dao ở Mẫu Sơn được dệt thủ công bằng sợi gai, sợi bông. Khi cây gai và cây bông đến mùa thu hoạch, người Dao mang về sơ chế thành sợi nuột nà rồi đem chúng dệt thành vải. Khi đã hoàn thiện tấm vải, họ đem nhuộm chàm để lên màu theo ý muốn. Hàng nằm vào quãng tháng 7, người dân lại đi thu hoạch chàm về ngâm nước. Ngâm cho lá mục nát thì lọc lấy nước cốt rồi cho vôi bột và nước tro bếp vào quấy đều đến khi nước lặng vài hôm sẽ thành cao chàm. Lấy cao chàm đun với lá ngải cứu, thêm ít tro và ít rượu là có thể làm thuốc nhuộm vải. Vải nhuộm phải đều tay, ngâm và phơi vài lần thì mới đủ độ. Vải khi
đã nhuộm thành công sẽ được đem ra để khâu, thêu theo ý muốn.

Những người mẹ, người bà dân tộc Dao dạy cho con gái, cháu gái mình việc dệt vải, thêu thùa từ bé. Các thiếu nữ Dao đều biết tự may cho mình những bộ trang phục đẹp nhất để mặc trong ngày cưới hay các mùa lễ hội. Để thêu xong một bộ quần áo như ý, họ phải cặm cụi làm trong suốt nhiều tháng, thậm chí cả năm trời. Những sợi chỉ màu qua đôi bàn tay khéo léo đã giúp bộ váy áo trở nên đẹp đẽ sống động. Các bà, các cô thêu lên áo quần những hoa văn, họa tiết hoặc hình thù đa dạng như cây cỏ, hoa lá và chim muông. Những đường chỉ thêu tỉ mỉ, cầu kỳ và cân xứng, thể hiện sự chăm chỉ cũng như tâm hồn và sức sống tươi mới của đồng bào Dao. Màu sắc chủ đạo trong các đường thêu là vàng, đỏ, xanh lá cây, giúp trang phục luôn nổi bật và thu hút.

Trang phục của đàn ông Dao khá đơn giản. Áo thường là màu tối, đính lên đó các tua chỉ ngũ sắc để trang trí cho nổi bật hơn. Đầu họ đội khăn xếp hoặc buộc một chiếc khăn. Quần lưng lửng ống rộng buộc néo bằng sợi dây gai có đồng xu làm khuy để giữ cạp quần neo lại ở phần eo. Trong khi đó trang phục nữ cầu kỳ hơn và được nhấn nhá trang trí ở các đường nẹp áo, gấu quần, yếm và thắt lưng. Các bà các cô thường mặc áo dài bốn thân bổ tà trước ngực, bên trong là áo yếm. Áo váy của họ bên cạnh những mảng thêu dày lớp lớp hoa văn còn gắn các dây hạt cườm nhiều màu sắc điệu đà. Ở eo người ta thắt một dải vải màu trắng với các đường thêu tỉ mỉ tinh tế. Người Dao chuộng trang sức bạc nên trong các dịp quan trọng, họ thường gắn các ngôi sao bằng bạc lên váy áo, đeo dây xà tích bạc bên hông, đeo khuyên bạc lớn ở tai và đeo nhiều vòng bạc xủng xoảng ở tay.

Về mũ đội đầu, người phụ nữ Dao nơi đây đội một chiếc mũ hình mái nhà màu đỏ kèm theo nhiều tua rua hạt cườm và khăn phủ. Họ còn có chiếc khăn Tầm phjả rất đặc biệt với hoa văn thêu tay rực rỡ cùng những chuỗi hạt kết thành nhiều vòng tròn. Giữa vòng tròn ấy là một ngôi sao to bằng bạc màu trắng. Người phụ nữ Dao chỉ được đội khăn này hai lần trong đời, một lần vào ngày cưới và một lần khi đã lớn tuổi trong nghi thức “kết tơ hồng” của đại lễ cấp sắc (từ bảy đèn trở lên) của đức phu quân.

Khi tết đến, người Dao tắm nước lá thuốc truyền thống để gột bỏ ưu phiền năm cũ rồi mặc bộ trang phục mới nhất, đẹp nhất để cùng chờ đón thời khắc Giao thừa và cầu một năm mới sung túc, bình an… Trong lễ cấp sắc của người Dao Mẫu  Sơn, người đàn ông Dao mặc những chiếc áo dài cài khuy trước, màu đỏ in hình công phượng sặc sỡ, đầu đội mũ vành tròn có mỏm nhọn nhô về phía sau, phía trước dán tờ giấy in hình mặt người, vừa đi vòng quanh vừa hát và lắc chuông vang rộn.

Nếp mặc của người Dao ở Mẫu Sơn được thể hiện độc đáo hơn ở trang phục cưới. Vào ngày cưới, mọi người diện những bộ áo quần mới đẹp nhất để dự lễ. Cô dâu và chú rể được hai họ chăm chút ăn mặc hơn cả. Chú rể thường mặc áo dài màu trầm phủ ngoài quần dài, vai khoác và buộc tấm khăn to kèm thêm dải khăn dài thêu thổ cẩm màu vàng đỏ. Trên đầu đội mũ cùng khăn che mặt màu tối. Phía cô dâu thì áo váy cầu kỳ hơn nhiều. Ngoài của hồi môn, cô dâu phải có hai bộ trang phục để về nhà chồng. Một bộ lúc rời nhà bố mẹ đẻ và một bộ thay trước khi bước vào nhà trai. Trang phục của cô dâu gồm khăn che mặt, áo dài nhiều lớp cùng quần và bốn thắt lưng. Mỗi bộ trang phục của cô dâu người Dao trung bình có từ 3 đến 10 lớp. Gia đình nào sung túc thì trang phục cô dâu sẽ được may nhiều lớp hơn. Nhà trai háo hức đón dâu từ tinh mơ, còn cô dâu hồi hộp chuẩn bị sẵn sàng mọi tư trang, đồ đạc để lên đường. Trước khi vào cổng nhà trai, đoàn nhà gái sẽ dừng lại để các phù dâu phụ giúp thay đồ mới cho cô dâu. Lúc này, cô dâu đeo thêm vòng cổ, vòng tay, trang sức bằng bạc. Trên tay cô dâu chú rể đều ngay ngắn một tấm vải trắng thêu họa tiết đơn giản để làm lễ bái đường.

Trang phục Dao đã trở thành biểu tượng nghệ thuật của người Dao, ẩn chứa bao điều kỳ bí, thể hiện rõ nét quan niệm về vũ trụ, nhân sinh trong từng đường kim mũi chỉ. Ai đã đến và sống trong không gian văn hóa của người Dao Mẫu Sơn hẳn sẽ rất nhớ những bộ váy áo ấn tượng với từng nét thêu mềm mại, sống động và rực rỡ. Nhớ cả những nụ cười hồn nhiên, đầy sức sống bừng lên trong nắng sớm,  lấp láy giữa ngàn hoa, khiến người du khách ghé qua lưu luyến chẳng muốn rời.

Bài đăng trên Heritage (H238)

https://heritagevietnamairlines.com/bieu-tuong-nghe-thuat-cua-nguoi-dao/

Published in: on 01/05/2022 at 7:25 Chiều  Gửi bình luận  

Nghề se lanh, dệt vải ở bản Cát Cát

Mùa xuân, khi những đóa hoa lê, hoa mận bung nở khắp núi rừng phía Bắc, khi những con chim đua nhau hót trên những cành đào, cành mai thì bao du khách lại háo hức tìm về Sapa (Lào Cai) để được hưởng trọn không khí thanh bình, nguyên sơ của mảnh đất này. Trên cung đường du xuân đầy thú vị, bạn hãy dừng chân lâu một chút tại bản Cát Cát để khám phá, cảm nhận được đầy đủ, sâu sắc hơn những nét văn hóa đẹp đẽ, độc đáo và thuần phác nơi đây.

Cát Cát là một bản làng đặc trưng của người Mông thuộc xã San Sả Hồ, cách trung tâm thị trấn Sa Pa chừng 2km, nằm yên ả quần tụ dưới chân dãy núi Hoàng Liên Sơn bốn mùa điềm đạm vững chãi. Bên cạnh nghề trồng lúa, ngô và chăn nuôi gia súc, người làng Cát Cát còn nuôi dưỡng và phát huy rất tốt các nghề thủ công truyền thống, trong đó nổi bật là nghề se lanh, dệt vải. Nghề dệt vải thổ cẩm là một trong những điểm sáng nơi đây, là cái nôi của rất nhiều sản phẩm thủ công khiến biết bao du khách đến với Sapa vương vấn, phải lòng.

Nghề se lanh, dệt vải ở bản Cát Cát được những người phụ nữ H’Mông duy trì, lưu truyền bao đời thông qua tục lệ bà/mẹ truyền dạy cho con/cháu gái khi đến tuổi cập kê. Có tục lệ, vào ngày cưới của mình các cô gái Mông sẽ mặc những chiếc váy áo do chính họ tự dệt nên với tất cả sự tự hào, nâng niu và tâm huyết. Những chiếc váy áo thể hiện sự khéo léo của cô gái người Mông với đức tính chăm chỉ, thuần hậu, đồng thời mang theo bao gửi gắm về khát khao sinh sôi, bình yên và hạnh phúc. Cũng theo phong tục người H’Mông, người chết khi liệm phải được mặc áo ngoài dệt bằng vải lanh thì linh hồn họ mới có thể quay về đoàn tụ với tổ tiên. Nghề dệt thổ cẩm của dân tộc H’Mông có nét riêng khó lẫn, là điểm nhận dạng đặc sắc dành cho một dân tộc thiểu số có nền tảng văn hóa phong phú và lâu đời.

Nguyên liệu chính để làm nên sản phẩm vải thổ cẩm là từ sợi cây lanh, vì sợi lanh vừa mềm vừa dai nên khi dệt thành vải sẽ rất bền. Đầu tiên, người dân trồng lanh, khi cây lớn sẽ thu hoạch và bó thành đụn phơi giữa đồng cho đủ nắng gió. Khi lanh khô, họ mang về tước vỏ rồi đem luộc cho đến khi sợi lanh chuyển thành màu trắng tinh. Tước vỏ cũng phải có kỹ thuật, sao cho sợi lanh không bị đứt đoạn để hạn chế các mối nối nhất có thể. Khi nối sợi cũng phải nối rất tinh để sợi lanh được đều và đẹp. Sau công đoạn nối và se sợi bằng tay, người thợ sẽ lắp sợi vào guồng se tiếp trước khi cho vào guồng thu sợi. Kể từ đây, sợi lanh đã trở nên mướt mịn hơn sợi lanh thô ban đầu để chuẩn bị bước vào công đoạn dệt vải.

Trong bản Cát Cát, nhà nào cũng có khung cửi và phụ nữ nào cũng biết se lanh, dệt vải. Khung dệt của người phụ nữ Mông tuy đơn sơ nhưng bao đời nay đã giúp dệt nên bao tấm vải mịn màng, vuông vức rất bền đẹp. Những mảnh vải tuy chất phác, mộc mạc nhưng chứa đựng sự tỉ mỉ, đều đặn, thuần thục của người thợ qua từng nhịp dệt. Nó lột tả được đời sống của bà con nơi đây, đơn sơ, giản dị nhưng vẫn đầy tinh tế, kiên định để có thể sống vui, sống khỏe giữa núi rừng.

Vải được dệt xong sẽ được đem ngâm trong nước chàm. Sau khi vò nát chàm để lấy nước, ta được thứ nước cốt sóng sánh ánh sắc xanh lá cây. Đổ nước ấy vào thùng gỗ thông, người thợ ủ cùng một lớp tro bếp hoặc vôi để chàm không phai màu, rồi pha thêm nước và ngâm khoảng 6 – 8 ngày. Lúc này nước chàm chuyển sang màu xanh đậm và đã có thể đem nhuộm được. Sau khi nhuộm xong và phơi khô, người thợ chuyển sang công đoạn bôi sáp ong lên vải cho trơn láng và dùng con lăn bằng gỗ mài chúng trên tấm đá phẳng cho đến khi vải sáng bóng lên.

Tiếp sau công đoạn se sợi, dệt vải, nhuộm chàm là công đoạn in thêu hoa văn lên vải. Họa tiết hoa văn thêu tay của người Mông rất hài hòa, khéo léo với những hình thêu hoa cỏ, lá cây, muông thú và hoa văn tỉ mỉ đa sắc màu. Vì làm bằng phương pháp thủ công nên nét thêu không thể đều tăm tắp, song chính điều đó lại làm nên sự khác biệt và riêng có trong từng sản phẩm sau một quá trình được người phụ nữ săn sóc, ấp iu. Từng đường kim mũi chỉ thể hiện niềm say mê, sự chăm chút và thái độ làm việc nghiêm túc của người thợ đối với mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình. Mỗi hoa văn mang một ý nghĩa riêng, phản ánh thói quen sinh hoạt và đời sống tinh thần của người dân. Nó cũng cho thấy trí tưởng tượng phong phú và khát khao sống thuận hòa, hạnh phúc của mỗi con người H’Mông
trong nền tảng gia đình và cộng đồng luôn hướng đến sự bao bọc, tương trợ và đoàn kết.

Qua bao mùa mưa nắng vui buồn, những người phụ nữ Mông ở bản Cát Cát vẫn cứ cần mẫn se lanh, chuốt chỉ, dệt vải và thêu thùa. Mặc cho đời sống bao la ngoài kia có thay đổi chóng mặt đến mấy, thì nơi bản làng yên tĩnh này hoa vẫn nở, chim vẫn hót và những người phụ nữ vẫn mải miết se sợi, dệt vải vì họ sinh ra đã vốn dĩ là như thế. Không cần phân vân, đắn đo, họ cứ sống và làm những công việc đơn thuần với niềm yêu đời lạc quan dung dị, làm không màng ai phải ngợi khen, ghi nhận.

Những cây lanh lớn lên lại vào guồng dệt, những cây chàm già lá sẽ đi tìm thùng gỗ, những vuông vải thành hình sẽ được chắp cánh bằng những đường thêu khéo léo đầy sáng tạo với những tưởng tượng và ước mơ bay bổng, tốt lành. Bền bỉ và khiêm nhường, sản phẩm vải dệt thổ cẩm của người dân Cát Cát đã lặng lẽ theo chân biết bao du khách về với những vùng đất mới với sứ mệnh không hề nhỏ bé: Giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa đậm đặc, đa dạng của dân tộc Việt trong thời đại mà mọi giá trị truyền thống rất dễ bị biến dạng, phai màu.

https://heritagevietnamairlines.com/nghe-se-lanh-det-vai-o-ban-cat-cat/

Published in: on 21/04/2022 at 7:49 Chiều  Gửi bình luận  

Nhà báo, NSNA Trần Việt Văn: Sáng tạo riêng biệt và chạm sâu cảm xúc.

Nhắc đến Nhà báo, Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Trần Việt Văn, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến bộ sưu tập giải thưởng nhiếp ảnh quốc tế đồ sộ cũng như những bài viết sắc sảo, mang đậm cá tính của anh. Chưa kể anh còn là người có nghề trong lĩnh vực điện ảnh khi là thành viên Hội đồng Duyệt phim Quốc gia và có nhiều bài phê bình điện ảnh mang tính chuyên môn cao. Dẫu vậy, anh luôn là người điềm đạm, khiêm tốn và chưa bao giờ tự mãn, chùn bước trên con đường sáng tạo đầy thăng hoa nhưng không ít khó nhọc này.

Tôi gặp Trần Việt Văn lần đầu tiên vào một ngày Hà Nội mùa xuân hiu hiu lạnh trong chính căn nhà của bố mẹ mình, khi anh đến tặng một số cuốn sách quý cho “Gallery Ký ức nhiếp ảnh”. Còn nhớ, anh đội một chiếc mũ lưỡi trai phớt tỉnh, cổ quàng chiếc khăn rằn đỏ nổi bật trên nền áo Adidas màu đen, và dĩ nhiên, vẫn luôn là quần bò lãng tử. Hàng râu rậm cương nghị, mái tóc đổ sóng lăn tăn ngẫu hứng khiến anh vừa mang vẻ lạnh lùng lại vừa ẩn chứa chút gì lãng mạn. Bố nhờ tôi chụp cho mấy bức ảnh lưu niệm, theo thói quen, ông nghĩ anh sẽ cầm bộ sách lên trao tặng như bao người. Song anh lại chỉ đặt những cuốn sách ấy hồn nhiên ở trên bàn, đứng thoải mái bên cạnh ông với hai bàn tay sục vào túi quần, như không hề có sự trao nhận nào đang diễn ra ở đó cả. Lối cư xử ấy khiến tôi cảm nhận được ở anh một cốt cách nghệ sỹ rất riêng, không màu mè…

Trần Việt Văn đến với báo và ảnh khá thuận lợi khi được sinh ra trong một gia đình trí thức, bố là nhà nghiên cứu sân khấu Trần Việt Ngữ, mẹ là PGS.TS, nhà nghiên cứu Văn học Lê Thị Đức Hạnh và anh trai là người rất am hiểu về nhiếp ảnh. Trần Việt Văn trong mắt mọi người rất đa tài và có lối sống đàng hoàng, tự trọng. Trong nghề viết, đặc biệt ở lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và cả thể thao, anh thể hiện tư duy sắc bén, tinh thông và hóm hỉnh. Các bài báo, bài tản văn cho thấy một Trần Việt Văn có nội tâm tinh tế, đầy thấu cảm và cũng thật phóng khoáng, tự tại. Trong bối cảnh nhiều người làm nghề đang ngoi ngóp bấu víu lấy những thứ chung chung nhàn nhạt để tồn tại, rất cần một ngòi bút có chính kiến, không nhượng bộ như Việt Văn. Anh cho rằng, ngành nào càng ít phụ thuộc vào nguyên vật liệu, phương tiện, thiết bị mà chú trọng vào trí tưởng tượng và sự sáng tạo của tác giả thì càng được đánh giá cao.

Nói về sự nghiệp nhiếp ảnh của Việt Văn, nhiều người thường bị cuốn theo sự danh giá của các giải thưởng uy tín mà anh đạt được. Cũng phải, anh được xem là nghệ sỹ nhiếp ảnh Việt Nam giành nhiều giải thưởng ảnh quốc tế nhất, được giới nhiếp ảnh và truyền thông nước ngoài ghi nhận. Chưa kể anh còn là giám khảo có uy tín trong các cuộc thi ảnh trong nước. Danh xưng, vị trí ấy đâu dễ gì có được. Nhưng sâu xa hơn, mấy ai nhìn lại chặng đường anh đã đi qua và đặt câu hỏi vì sao anh lại thành công đến vậy. May mắn thì đúng rồi, như anh tự nhận. Nhưng nếu đơn thuần chỉ là may mắn thì được mấy lần trong đời, huống hồ giải thưởng trong các cuộc thi ảnh chuyên nghiệp quốc tế đã lên tới con số 90. Tôi cho rằng, thành công đó bắt nguồn từ chính quan điểm, thái độ, nhận thức của anh đối với nghề.

Về chủ đề sáng tác, anh tự nhận mình không phù hợp với mảng ảnh thiên nhiên, du lịch đẹp đẽ và tròn trịa. Anh bị cuốn hút bởi những chủ đề đa dạng, trần trụ và cụ thể của đời sống. Đồng thời, chủ đề tâm linh và nội tâm con người với những thứ trừu tượng, ẩn sâu bên trong họ cũng lấy nhiều tâm huyết của anh. Việt Văn cho rằng người nghệ sỹ phải có tư duy sáng tác nên anh chú trọng mảng ảnh ý niệm, song không phải là những sắp đặt vụng về hay triết lý khiên cưỡng. Anh từng chia sẻ trên báo chí “ảnh phải khiến người ta suy nghĩ, khiến người ta xôn xao, phải đem đến cảm xúc về cuộc sống” thì mới là bức ảnh thành công. Những dự án như “Hà Nội động và tĩnh”, “Tồn tại hay không tồn tại”, “Màu mặt trời”, “Ký ức tình yêu”, “Đạo và Đời”… thể hiện rõ quan điểm ấy.

Đáng chú ý, bộ ảnh “Tướng trận thời bình” (triển lãm cá nhân tại Hà Nội năm 2009 và 2014) chụp 12 vị tướng nổi tiếng, tiêu biểu cho một thế hệ tướng lĩnh từng trực tiếp tham gia chiến đấu trong các cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc, trong sinh hoạt đời thường, đã tạo được ấn tượng đậm nét đối với người xem. Những tác phẩm này đã giành Huy chương vàng cuộc thi ảnh Px3 – Paris (Pháp, 2014) và Giải nhất Ảnh báo chí (Editorai) tại Liên hoan ảnh toàn cầu tại Anh (2011). Ngoài ra, bộ ảnh “Câu chuyện của Châu” với hơn 30 bức ảnh ấn tượng xoay quanh cuộc sống và nghị lực của họa sĩ Lê Minh Châu, nạn nhân chất độc da cam, cũng tạo cho công chúng những cảm xúc sâu sắc. Các tác phẩm Văn chụp Châu không sa vào lối mòn là khơi gợi lòng thương cảm, mà thể hiện sự trân trọng đối với một nghị lực sống, từ đó truyền cảm hứng tới cộng đồng. Bộ ảnh này đã giành nhiều giải thưởng lớn tại Nhật Bản, Anh, Tây Ban Nha, Mỹ, được triển lãm tại Ấn Độ và xuất bản trên tạp chí Getinspired của Hà Lan…

Đặc biệt nhất là bộ ảnh “Mẹ tôi” mà anh chụp người mẹ của mình, một người phụ nữ trí thức của Hà Nội, bằng tất cả yêu thương, gần gũi và thấu hiểu. Đó là những khoảnh khắc đời thường với những sinh hoạt hàng ngày hay những đồ vật thân thuộc mà mẹ anh luôn gắn bó như chiếc thớt, chiếc mâm đồng, chiếc áo dài, những bức thư… Qua đó anh đã tái hiện xúc động những miền hồi ức, lột tả sâu sắc tâm tư, niềm tin và cả nỗi nhớ của bà dành cho người chồng đã khuất. 27 bức thuộc bộ ảnh này đã được chọn để triển lãm cá nhân tại Liên hoan Ảnh quốc tế Photometria (Ioannina, Hy Lạp, 2017). Trước đó, một phần của bộ ảnh cũng đã được nhận bằng danh dự tại cuộc thi IPA (Mỹ), ND Awards (Anh) và vào chung kết SIPA Contest (Ý), PH21 Gallery (Hungary).

Việt Văn tham gia các cuộc thi quốc tế là để nhìn lại chính mình, biết mình đang ở đâu trong dòng chảy nhiếp ảnh đương đại, để thấy mình đang vận động trên con đường sáng tạo luôn đòi hỏi sự đổi mới. Giải thưởng Quốc tế đầu tiên anh đạt được tại Nhật Bản vào năm 2000 với bức ảnh “Chia sẻ một niềm tin tôn giáo” là cột mốc đáng nhớ, mở đầu cho hàng loạt những thành tựu quốc tế liên tiếp sau này. Gần nhất, đầu năm nay, tác phẩm “Ngày nắng” của anh đã giành giải Nhất hạng mục “Văn hóa bản địa” (Indigenous Cultures) trong Cuộc thi Nhiếp ảnh Quốc tế về Môi trường “International Enviromental Photography (CEFF, Mỹ). Tuy nhiên, anh tham gia các cuộc thi có chọn lọc. Đó phải là những cuộc thi mang tính chuyên nghiệp với ban giám khảo là những tên tuổi gạo cội, uy tín trong lĩnh vực nhiếp ảnh và sáng tạo. Trên hết, anh vẫn đề cao triển lãm cá nhân vì đây mới là dòng chủ lưu, là dấu ấn quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của người nghệ sỹ. Vì vậy, hẳn con số 11 triển lãm cá nhân sẽ còn được tiếp nối rất dài.

Anh cho rằng, nhiếp ảnh là môn nghệ thuật thị giác có sức biểu đạt phong phú, có khả năng diễn tả những câu chuyện của cảm xúc, của ký ức, của sự tưởng tượng, của sự kết nối mang tính cảm giác. Vì vậy, nghệ sỹ nhiếp ảnh phải có chiều sâu tư duy mới có thể tạo ra ý tưởng đủ sức lay động lòng người. Tùy thuộc thể loại ảnh và tuỳ vào mục đích của người chụp mà phương tiện kỹ thuật phát huy tác dụng đến đâu. Như để bắt đúng khoảnh khắc quyết định của một sự kiên thể thao thì đòi hỏi máy ảnh có tốc độ chụp liên tục từ 9 đến 12 hình/s và hơn nữa, hay chụp ảnh quảng cáo bắt buộc thiết bị phải rất hiện đại. Nhưng dù trong trường hợp nào, vai trò của thiết bị cũng chỉ chiếm 40% đến 45% là cùng. Có những bức ảnh nhìn rất chuẩn về bố cục và ánh sáng, nhưng khi xem lại không cảm xúc, có lẽ do tác giả chụp ảnh bằng lý trí. Văn cũng có lúc không tránh khỏi bế tắc, thiếu hụt cảm xúc và cạn kiệt ý tưởng. Khi ấy, anh sẽ làm các việc yêu thích khác như đọc sách (đặc biệt là Murakami với những tác phẩm thực ảo đan xen, mang lại nhiều suy tưởng), xem phim hay gặp gỡ những người bạn ở nhiều lĩnh vực. Rồi bất ngờ một lúc nào không biết trước, cảm hứng lại tươi mới ùa về. Tất nhiên nhiều thứ không thể đợi đến lúc có cảm hứng, như các bài báo đến lịch phải lên trang, chỉ còn cách làm việc miệt mài để mọi thứ hoàn thành đúng hạn.

Kiên định và đam mê, cân bằng và biết điều, tinh tế và sắc sảo, trừu tượng và cảm xúc, đó là những tính từ không thể thiếu khi nói về Trần Việt Văn.

Nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Việt Văn sinh năm 1971 tại Hà Nội, hiện là phóng viên đặc biệt của báo Lao Động. Anh đã có 11 triển lãm cá nhân, trong đó có triển lãm “Mẹ tôi” tổ chức tại Photometria (Hy Lạp); tham gia hơn 50 triển lãm nhóm ở châu Á, châu Âu và Mỹ, trong đó có triển lãm “Fifth Exposure Annual Awards” tổ chức tại Bảo tàng Louver (Paris, Pháp). Anh cũng giành được hơn 90 giải thưởng ảnh quốc tế uy tín như: Px3 (Pháp), IPA, Master Cup, Art of Photography Show (Mỹ), MIFA (Nga), TIFA (Nhật Bản), ND Awards, Travel Photographer of the Year, Pollux annua Award (Anh)…; đã xuất bản 7 cuốn sách, đặc biệt là cuốn sách ảnh “Phật pháp và cuộc sống” do EU tài trợ. Nhiều tác phẩm của anh xuất hiện trên các ấn phẩm nổi tiếng như: Mythography Vol.1, Urban Unveil Vol.1, 2, 3, 4 (Italia), Journal (Mỹ), Photo (Pháp), Silvershotz (Úc), Dodho (Tây Ban Nha), Getinspired (Neitherland), F-Stop (US), v.v…

https://cand.com.vn/Nhan-vat/nha-bao-nhiep-anh-gia-tran-viet-van-sang-tao-rieng-biet-va-cham-sau-cam-xuc-i650997/

Published in: on 09/04/2022 at 4:47 Chiều  Gửi bình luận  

Bài đăng

https://heritagevietnamairlines.com/noi-dai-ngan-khoang-dat/

https://heritagevietnamairlines.com/nhon-nhip-cang-ca-ngu-phu-yen/

Published in: on 27/03/2022 at 4:37 Chiều  Gửi bình luận  

Lễ rửa làng của người Lô Lô

Vào mùa hè, khi vạn vật bung nở tươi tắn dưới nắng trời, khi đồi núi thênh thang xong xuôi mùa vụ, người Lô Lô lại nghĩ tới việc tổ chức lễ rửa làng của dân tộc mình. Độc đáo không chỉ bởi đó là một lễ cúng có cái tên khác biệt, mà còn bởi ba năm nó mới lặp lại một lần. Ba năm, hơn 1.000 ngày, người dân mới được làm lễ cúng ấy, trong một ngày đẹp trời mà họ đã cùng nhau họp bàn để chọn ra…

Dân tộc Lô Lô là một trong những dân tộc thiểu số có dân số ít nhất tại Việt Nam, cư trú chủ yếu ở tỉnh Hà Giang và Cao Bằng. Tuy nhiên, không vì thế mà đồng bào nơi đây thiếu vắng bề dày văn hóa so với những tộc người đông đúc người khác. Người Lô Lô thường sống tập trung trong các bản làng cố định nên có tính cộng đồng rất rõ nét.

Họ cùng nhau sáng tạo ra nhiều phong tục đặc sắc cho riêng tộc người mình để ghi dấu bản sắc riêng trên vùng núi cao hoang sơ nắng gió. Ngoài những lúc làm lụng vất vả chăm chỉ, họ lại quây quần bên nhau để cùng nhau thực hiện những nghi thức cổ truyền nhằm nhắc nhau nhớ về nguồn cội và cùng nhau hướng đến những ước vọng tốt lành trong đời sống. Bên cạnh những ngày lễ tiêu biểu như lễ nhảy cây, lễ cầu mưa, lễ thờ thần đá, thì người dân Lô Lô còn có lễ rửa làng rất độc đáo, thú vị.

Lễ rửa làng còn có tên gọi là lễ mừng ngô mới, bắt nguồn từ nhận thức của người dân rằng không gian sinh sống của họ phải được “làm sạch”, “tẩy rửa” theo định kỳ để không còn những bụi bặm, đen đủi, tà ma quấy phá. Theo thông lệ, cứ ba năm một, vào thời điểm tháng 5 hoặc tháng 6 âm lịch, người Lô Lô ngồi lại cùng nhau chọn ngày tổ chức lễ rửa làng, thống nhất việc mời thầy cúng và phân công mọi người sắm sanh đồ lễ.

Một ngày trước khi tổ chức lễ rửa làng, người dân chuẩn bị lễ để xin các thầy cúng tiền bối gồm thẻ hương, chén nước, giấy trúc và con gà trống. Vào tối ngày hôm trước tại nhà thầy cúng, thầy cúng sẽ thắp hương rồi đặt giấy trúc và chén nước xuống góc nhà để khấn xin. Khi thầy cúng bọc tờ giấy trúc lên chén nước mà nước trong chén không bị thấm hoặc đổ ra ngoài thì lễ xin rửa làng đã linh nghiệm, báo hiệu việc cúng rửa làng sẽ thành công. Kết thúc lễ xin, ông thầy đốt tờ giấy trúc để hoàn tất thủ tục cúng.

Đoàn người thực hiện lễ cúng vào ngày hôm sau gồm có một thầy cúng chính, một thầy cúng phụ và một số nam giới trong làng đi theo hỗ trợ. Đoàn người cúng sẽ cùng nhau đi khắp các nhà, suốt các hang cùng ngõ hẻm trong làng bản, vừa đi vừa gõ chiêng trống rộn ràng nhằm đánh thức những điều đẹp đẽ ngủ quên và xua đi những rủi ro ám ảnh. Theo tiếng chiêng trống vang động, tà khí sẽ sợ hãi mà trốn xa. Đi theo đoàn người sẽ là các đồ lễ gồm hai con dê (được cho là có mùi đặc trưng để xua đuổi tà ma), một con gà trống trắng, rượu ngô, hạt ngô, cỏ, kiếm gỗ, kiếm sắt, ba cành lau, ba cành đào, ba cành mận, miếng vải đỏ, đôi sừng trâu và cây tre to. Cây tre dài trước đó đã được đục miệng ở đoạn giữa và đổ đầy đất vào sau đó cắm hình nhân bằng giấy màu (được cắt theo kiểu đang giơ tay lên van xin, thể hiện cho sự sợ hãi của các hồn ma với người dân) rồi cắm hương theo từng hàng dọc ở giữa cây tre giả làm con ngựa.

Trên hành trình đi quanh làng bản, sẽ có hai người dắt hai con dê. Những người còn lại, người thì vác cây tre giả hình ngựa; người quấy hạt ngô; người xách gà trống trắng cùng các cành đào, mận, lau, vải đỏ… theo sau thầy cúng đi vào từng nhà dân. Thầy cúng sẽ cất lời xua đuổi tà ma, dậm chân và rắc ngô khắp các xó nhà rồi lấy hai mảnh gỗ biểu hiện cho âm – dương ra tung lên xem quẻ để xem còn hồn ma nào vất vưởng trong nhà nữa không. Nếu quẻ gieo chưa thành công (cả hai mảnh gỗ cùng sấp hoặc cùng ngửa), thầy cúng lại phun nước, phun rượu để đuổi tiếp, cho đến khi nào quẻ lật một sấp một ngửa mới thôi. Tới nhà nào, gia chủ nơi đó phải chuẩn bị sẵn hình nhân cùng hai bó củi và hai bó có để ngầm bồi dưỡng công xua đuổi tà ma cho thầy cúng với thái độ cung kính, thành khẩn.

Sau khi kết thúc hành trình xua đuổi tà ma ở từng nhà dân trong bản, mọi người sẽ tụ tập ở một bãi đất rộng chứng kiến cảnh hai con dê bị đánh để bẩm báo với trời rằng người Lô Lô đã xong lễ cúng. Theo quan niệm của người dân, con dê bị đánh càng đau sẽ càng kêu to khiến ông trời thấu rõ ước vọng của họ để ban phước lành về mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, nhà nhà khỏe mạnh.

Xong buổi lễ, mọi người thấy nhẹ nhõm hơn vì tin tưởng vào một tương lai tươi sáng phía trước, làng bản từ nay sẽ phong quang, sạch sẽ và mọi việc sẽ đều thuận lợi, may mắn. Các cô gái trong bản nhân dịp này được diện những bộ váy áo đẹp được thêu thùa cầu kỳ, trên đầu đội những chiếc khăn điệu đà làm dáng, túm tụm bên nhau vui vẻ nói cười. Các chàng trai hào sảng phấn khởi lớn giọng chúc tục nhau chén rượu nồng thơm. Các cụ ông, cụ bà anh ánh nét cười nhìn con cháu vui vầy xum họp. Mọi người hoan hỉ ăn hết sạch thịt, uống hết rượu rồi mới ai về nhà nấy, bắt đầu ba năm yên ổn sinh sống và làm ăn. Sau lễ cúng, phải 9 ngày sau người lạ mới được bước vào làng vì người Lô Lô cho rằng nếu để người lạ đến, tà ma lại sẽ theo vào và như vậy là lễ không thiêng nữa. Nếu chẳng may có người lạ vào làng, người đó phải sửa soạn lễ vật để cúng lại, bù vào lễ cúng đã bị họ làm mất thiêng.

Với những nghi thức độc đáo như trên, lễ rửa làng của đồng bào Lô Lô được coi là tín ngưỡng dân gian và nét đẹp truyền thống góp phần làm giàu có thêm cho bản sắc của cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam.

https://heritagevietnamairlines.com/le-rua-lang-cua-nguoi-lo-lo/

Published in: on 12/03/2022 at 2:58 Sáng  Gửi bình luận  

Líu giữa ngày đông

https://heritagevietnamairlines.com/liu-giua-ngay-dong/

Published in: on 27/02/2022 at 4:50 Chiều  Comments (3)